VCCI_Rà soát, đánh giá việc thực hiện Nghị định 51/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa
VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 16/2012/TT-NHNN hướng dẫn một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng
Kính gửi: Vụ Quản lý Ngoại hối – Ngân hàng Nhà nước
Trả lời Công văn số 3909/NHNN-QLNH ngày 02/6/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 16/2012/TT-NHNN hướng dẫn một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có ý kiến ban đầu như sau:
- Trách nhiệm báo cáo khi có thay đổi thông tin
Điều 2.3 Dự thảo (bổ sung Điều 20.1a Thông tư 16/2020/TT-NHNN) yêu cầu doanh nghiệp, tổ chức tín dụng phải thực hiện báo cáo theo quý nếu có thực hiện thay đổi nội dung thông tin doanh nghiệp, tổ chức tín dụng trên Giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng. Quy định này được cho là nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính từ thay đổi giấy phép tại Điều 15a Thông tư 16/2020/TT-NHNN thành thủ tục báo cáo định kỳ. Tuy nhiên, quy định này vẫn cần được cân nhắc lại do chưa thực sự hợp lý. Các thay đổi nội dung thông tin doanh nghiệp đều phải thực hiện thông báo với cơ quan đăng ký kinh doanh theo quy định tại Nghị định 01/2021/NĐ-CP. Như vậy, các dữ liệu về nội dung thông tin doanh nghiệp đều được lưu giữ trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Tương tự, các thông tin thay đổi của tổ chức tín dụng đều được Ngân hàng Nhà nước nắm giữ. Các cơ quan quản lý nhà nước trên có thể chia sẻ thông tin hoặc truy cập trên cơ sở dữ liệu điện tử để thực hiện chức năng quản lý của mình. Việc yêu cầu doanh nghiệp phải báo cáo các vấn đề liên quan đến thay đổi thông tin doanh nghiệp sẽ khiến doanh nghiệp phải thực hiện hai thủ tục cho cùng một nội dung thay đổi tại hai cơ quan quản lý khác nhau. Vì vậy, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo quản lý nhà nước, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định trên và bổ sung quy định về chia sẻ các thông tin trên giữa các cơ quan nhà nước.
- Tài liệu trong hồ sơ điện tử với thủ tục cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu
Điều 1.2 Dự thảo (bổ sung Điều 15.5 vào Thông tư 16/2012/TT-NHNN) quy định về thủ tục, hồ sơ khi doanh nghiệp thực hiện thủ tục cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu theo cơ chế một cửa quốc gia. Quy định này cần xem xét ở một số điểm sau:
Thứ nhất, Điều 15.5.a (sau khi được bổ sung) quy định các tài liệu trong hồ sơ điện tử là bản điện tử quét từ bản chính hoặc bản sao được cấp từ sổ gốc hoặc bản sao có chứng thực. Tuy nhiên, quy định này dường như không cần thiết. Điều 15.3 Nghị định 85/2019/NĐ-CP công nhận tính hợp pháp của chứng từ điện tử chuyển đổi từ chứng từ giấy nếu đáp ứng (i) tính toàn vẹn của chứng từ giấy; (ii) có chữ ký số. Dự thảo đã yêu cầu hồ sơ điện tử phải sử dụng chữ ký số, do vậy đã đảm bảo tính pháp lý của chứng từ điện tử chuyển đổi từ chứng từ giấy. Khi đó, việc yêu cầu tính pháp lý của chứng từ giấy là không cần thiết. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này và thực hiện theo quy định của Nghị định 85/2019/NĐ-CP.
Thứ hai, Điều 15.5.a (sau khi được bổ sung) yêu cầu các tài liệu (trừ văn bản đề nghị cấp phép nhập khẩu) phải là bản điện tử quét từ bản gốc. Tuy nhiên, quy định này chưa hợp lý vì ngoài tài liệu trên, một số tài liệu khác trong Hồ sơ cấp phép cũng có thể khai báo trên Cổng thông tin một cửa quốc gia như báo cáo tình hình thực hiện xuất, nhập khẩu và tiêu thụ sản phẩm vàng; bản kế hoạch sản xuất, kinh doanh (Điều 12.3, Điều 12.4 Thông tư 16/2012/TT-NHNN). Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định cho phép doanh nghiệp được lựa chọn khai các tài liệu trên trên Cổng thông tin một cửa quốc gia hoặc nộp bản điện tử quét từ bản gốc.
Thứ ba, Điều 15.5.b (sau khi được bổ sung) quy định thời hạn cấp phép nhập khẩu vàng nguyên liệu qua Cổng thông tin một cửa quốc gia là 30 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Như vậy, thời hạn thực hiện qua Cổng cũng bằng như thời gian xử lý khi các doanh nghiệp nộp thủ tục bằng giấy (Điều 15.4 Thông tư 16/2012/TT-NHNN). Do đó, để tạo điều kiện thuận lợi hơn và thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường số, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc giảm thời gian cấp phép giấy phép nhập khẩu vàng miếng qua Cổng thông tin một cửa quốc gia.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 16/2012/TT-NHNN hướng dẫn một số điều của Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.