Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật kế toán 2003 của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam

Thứ Sáu 10:07 24-05-2013

Thực hiện triển khai Công văn 1150/PTM-PC ngày 06/05/2013 của Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam về việc “Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật Kế toán và các văn bản hướng dẫn”, Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam (NHTMCPCTVN) báo cáo tổng kết 9 năm thi hành Luật Kế toán như sau:

1.      Đánh giá sự tác động tích cực của Luật Kế toán

Kế toán không chỉ là công cụ quản lý quan trọng, cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp mà còn là một công cụ hữu hiệu đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Do đó, nhà nước luôn quan tâm đến việc tổ chức bộ máy kế toán các doanh nghiệp và chế độ kế toán đồng nhất cho các ngành kinh tế. Từ những văn bản quy phạm pháp luật ban đầu như điều lệ, pháp lệnh, Nhà nước đã ban hành Luật Kế toán, các chuẩn mực kế toán, và các văn bản liên quan. Nhờ vậy, công tác kế toán ở các bộ, ngành, các tổng công ty, các tập đoàn, các doanh nghiệp…đã phát huy được tác dụng hạch toán phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh theo đúng đường lối phát triển kinh tế của Đảng, của Nhà nước. Từ đó thống nhất cách quản lý kế toán, bảo đảm kế toán là công cụ quản lý, giám sát chặt chẽ, có hiệu quả mọi hoạt động kinh tế tài chính, cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực, kịp thời, công khai minh bạch, đáp ứng yêu cầu tổ chức, quản lý của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức và cá nhân.

Luật Kế toán được xây dựng trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tế 15 năm thực hiện Pháp lệnh Kế toán và Thống kê 1988 và thực trạng hoạt động kế toán, kế thừa những mặt tích cực, những quy định còn phù hợp của Pháp lệnh 1988. Luật Kế toán 2003 đã được soạn thảo theo hướng vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt vừa phù hợp với tiến trình hội nhập với thế giới nhưng phải giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, Luật cũng được xây dựng theo phương án luật chi tiết, có thể căn cứ vào luật để thực hiện. Việc ban hành Luật kế toán 2003 là một bước tiến mới trong việc củng cố, hoàn thiện hệ thống pháp luật về kế toán của Việt Nam. Luật kế toán là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh mọi hoạt động về kế toán của mọi thành phần kinh tế và mọi lĩnh vực hoạt động, là cầu nối quan trọng giữa kế toán Việt Nam với kế toán khu vực và thế giới, góp phần tích cực trong việc xây dựng hoàn chỉnh hệ thống pháp luật kinh tế, tài chính Việt Nam.

Thực tế trong 9 năm thực hiện Luật Kế toán 2003 cho thấy Luật đã có những tác động tích cực rất lớn đối với hoạt động tài chính kế toán của mọi lĩnh vực, mọi thành phần trong nền kinh tế. Cụ thể:

1.1.  Đảm bảo quyền tự do kinh doanh

      Luật Kế toán 2003 đã có những tác động tích cực để bảo đảm quyền tự do kinh doanh như khắc phục được những khoảng trống pháp lý so với Pháp lệnh về Chế độ kế toán thống kê năm 1988 đã tồn tại 15 năm. Cụ thể, Luật Kế toán 2003 đã quy định rõ về Tổ chức công tác kế toán, công tác kiểm tra kế toán, người làm kế toán, kế toán trưởng... trong các đơn vị kế toán. Luật kế toán chính thức thừa nhận về “Dịch vụ kế toán” – 1 loại hình dịch vụ có ý nghĩa to lớn hỗ trợ công tác kế toán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.

      Luật Kế toán 2003 đã thay thế rất nhiều văn bản dưới luật được ban hành từ năm 1988 đến năm 2003. Điều đó khắc phục được tình trạng chắp vá trong việc quản lý công tác kế toán doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp và người làm kế toán. Điều này có ý nghĩa đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng vốn cần có sự chính xác, minh bạch về tài chính.

1.2.  Khuyến khích và bảo hộ đầu tư, kinh doanh

      Luật kế toán 2003 đã có tác động trong việc bảo hộ đầu tư, kinh doanh thông qua việc xây dựng một hành lang pháp lý chung giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, từ đó bảo đảm sự bình đẳng trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh. Ngoài ra, Luật Kế toán 2003 quy định về trách nhiệm công khai báo cáo tài chính của đơn vị kế toán nhằm bảo đảm sự minh bạch trong các hoạt động kinh doanh của Đơn vị, đồng thời quy định cụ thể về công tác kế toán trong những trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp, giải thể, phá sản tạo điều kiện về pháp lý cho các doanh nghiệp trong việc tái cơ cấu hoặc rút khỏi thị trường.

1.3.  Đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước

      Luật kế toán 2003 có nhiều quy định mới chặt chẽ đáp ứng được yêu cầu quản lý của Nhà nước trong công tác kế toán. Cụ thể: Luật Kế toán đã quy định về công tác kiểm tra kế toán tại Điều 35, 36, 37, 38 Mục 4 Chương 2; quy định về quản lý nhà nước về kế toán tại Điều 59,60 Chương 5.

1.4.  Chất lượng đội ngũ nhân lực kế toán

            Luật kế toán 2003 và các văn bản liên quan đã quy định cụ thể: kế toán được xác định là một hoạt động nghề nghiệp độc lập, người làm kế toán, làm kế toán trưởng được ràng buộc bởi các tiêu chuẩn điều kiện, đạo đức nghề nghiệp, có trách nhiệm, nghĩa vụ với xã hội và được hưởng quyền lợi tương xứng. Người làm kế toán được pháp lý thừa nhận, được quyền tham gia trong các tổ chức nghề nghiệp, được bảo vệ quyền lợi phẩm giá chính đáng theo quy định của pháp luật.

            Thành công của Luật kế toán là đội ngũ người làm kế toán càng lớn mạnh về quy mô và chất lượng nghề nghiệp, được đào tạo thông qua nhiều hình thức khác nhau. Bước đầu xuất hiện và hình thành chức danh hành nghề kế toán. Những người được cấp chứng chỉ hành nghề kế toán đều là những chuyên gia kế toán giỏi, đủ sức hành nghề độc lập, là hạt nhân để tạo lập đội ngũ người làm kế toán đông đảo và có chất lượng. Họ chính là người mang lại niềm tin cho các nhà quản lý, đảm bảo sự minh bạch và nâng cao độ tin cậy thông tin số liệu kế toán, tạo nên sự phát triển và hội nhập của hệ thống kế toán Việt Nam với khu vực và thế giới.

1.5.  Tác động đến ngành Ngân hàng

      Hiện nay, hệ thống ngành Ngân hàng Việt Nam đang phát triển đa dạng cả về hình thức sở hữu và loại hình tổ chức, đồng thời cũng đang áp dụng đầy đủ chuẩn mực quốc tế về quản trị ngân hàng. Thực tế những năm gần đây, thưc hiện chủ trương chính sách của Nhà nước, hệ thống Ngân hàng tại Việt Nam đang đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá, đặc biệt là các Ngân hàng thương mại nhà nước. Từ đó nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, khả năng sinh lời, xử lý nhanh nợ đọng, giảm tỷ lệ nợ xấu xuống mức an toàn; tăng vốn tự có; phát triển đa dạng các loại hình sản phẩm dịch vụ… của các ngân hàng thương mại đạt chuẩn mực quốc tế. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho dân cư và doanh nghiệp tiếp cận với các sản phẩm và tiện ích của ngành ngân hàng và thực hiện mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng.

            Trong những năm vừa qua, Luật Kế toán 2003 được coi như một công cụ quản lý hữu hiệu của Ngân hàng Nhà nước, là thước đo giúp Ngân hàng Nhà nước kiểm tra thực trạng hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng trong hệ thống. Đồng thời, Luật kế toán 2003 được coi là một hành lang pháp lý giúp các Ngân hàng bình đẳng trong hoạt động đầu tư, kinh doanh. Luật cũng chính là chìa khóa giúp các Ngân hàng duy trì và hoàn thiện hệ thống kế toán của Đơn vị, từ đó giúp các nhà quản lý Ngân hàng nâng cao tiềm lực tài chính, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và có định hướng phát triển đúng đắn trong tương lai.

2.      Đánh giá thực trạng các quy định của Luật Kế toán

2.1.  Đánh giá những bất cập, hạn chế trong quy định của Luật Kế toán liên quan đến các vấn đề sau:

Điều 2. Đối tượng áp dụng

-         Luật Kế toán 2003 quy định đối tượng là “Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam”, nhưng không quy định cụ thể đối với đối tượng là chi nhánh của doanh nghiệp đó. Do vậy, tồn tại một số vướng mắc: chi nhánh của Doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh, có doanh thu, chi phí, xuất hoá đơn, trên thực tế phải lập báo cáo thuế, hạch toán và thu nộp thuế độc lập nhưng đối tượng này lại không được xếp vào đơn vị kế toán?

-         Mặt khác, Luật chưa đề cập đến đối tượng: Ban quản lý các dự án đầu tư và Các tổ chức, cá nhân nước ngoài sản xuất kinh doanh trên cơ sở hợp đồng, thoả thuận hoặc cam kết với tổ chức, cá nhân Việt Nam (gọi tắt là Nhà thầu nước ngoài), có cơ sở cư trú tại Việt Nam (đối tượng này được quy định tại thông tư 244/2009/TT-BTC).

→  Vì vậy, kiến nghị bổ sung những đối tượng này.

Điều 4. Giải thích từ ngữ

-         Khoản 5 Điều 4 quy định “Đơn vị kế toán là đối tượng theo quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 2 của Luật này có lập báo cáo tài chính”, không quy định rõ là Đơn vị kế toán có lập hay phải lập báo cáo tài chính? Như vậy, có thể hiểu theo 2 cách:

o   Một số đối tượng được liệt kê theo quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 2 nếu không lập báo cáo tài chính thì không phải là “đơn vị kế toán”? Do vậy, đơn vị đó sẽ không phải thực hiện một số nghĩa vụ, tuân thủ một số quy định đối với đơn vị kế toán theo quy định của Luật Kế toán 2003?

o   Bất kỳ đơn vị nào được quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản 1 Điều 2 đơn vị kế toán phải lập báo cáo tài chính. Theo đó tồn tại vướng mắc: thực tế văn phòng đại diện của DN nước ngoài thành lập tại Việt Nam không có hoạt động kinh doanh, không có nguồn thu nên không phải lập báo cáo tài chính.

        Như vậy, quy định này dễ gây nhầm lẫn khi áp dụng và không phù hợp với thực tế.

       → Kiến nghị ban Dự thảo nghiên cứu xem xét sửa đổi, bổ sung và làm rõ giữa 2 điều kiện: các đối tượng và/hoặc lập báo cáo tài chính. Đồng thời, bổ sung vào Nghị định 129/2004/NĐ-CP về những đơn vị bắt buộc phải lập BCTC.

-         Đề nghị bổ sung giải thích cụm từ “Chứng từ điện tử”.

Điều 6. Yêu cầu kế toán

Điều 6. Yêu cầu kế toán quy định: “1. Phản ánh đầy đủ nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh... 2. Phản ánh kịp thời, đúng thời gian quy định... 3. Phản ánh rõ ràng, dễ hiểu và chính xác... 4. Phản ánh trung thực... 5. Thông tin, số liệu kế toán phải được phản ánh liên tục... 6. Phân loại, sắp xếp thông tin, số liệu kế toán theo trình tự… và có thể so sánh được”.

Chuẩn mực kế toán số 01 quy định các yêu cầu cơ bản đối với kế toán: Trung thực, khách quan, đầy đủ, kịp thời, dễ hiểu, có thể so sánh; các yêu cầu kế toán phải được thực hiện đồng thời.

            Những yêu cầu kế toán được quy định trong Luật không nhất quán với các yêu cầu kế toán được quy định tại Chuẩn mực kế toán số 01. Điều này gây khó khăn cho đối tượng thực hiện.

       → Kiến nghị sửa đổi Luật quy định về yêu cầu kế toán theo Chuẩn mực kế toán hoặc trong Luật không quy định chi tiết về các yêu cầu kế toán.

Điều 7. Nguyên tắc kế toán

Điều 7. Nguyên tắc kế toán quy định: “1. Giá trị của tài sản được tính theo giá gốc... 2. Các quy định và phương pháp kế toán đã chọn phải được áp dụng nhất quán... 3. ..phản ánh khách quan, đầy đủ, đúng thực tế và đúng kỳ kế toán… 4. Thông tin, số liệu … phải được công khai…. 5. Đơn vị kế toán phải sử dụng phương pháp đánh giá… một cách thận trọng..”.

            Chuẩn mực kế toán quy định các nguyên tắc cơ bản: cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục, giá gốc, phù hợp, nhất quán, thận trọng, trọng yếu.

            Luật kế toán quy định nguyên tắc kế toán không nhất quán với những nguyên tắc kế toán quy định tại Chuẩn mục kế toán số 01. Điều đó gây khó khăn cho đối tượng thực hiện.

       → Kiến nghị quy định về các nguyên tắc kế toán theo Chuẩn mực kế toán hoặc không quy định các nguyên tắc kế toán trong Luật Kế toán.

Điều 11. Đơn vị tính sử dụng trong kế toán

-         Tại khoản 1 Điều 11 Luật Kế toán quy định các nghiệp vụ kinh tế, tài chính ngoại tệ “phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá hối đoái thực tế hoặc quy đổi theo tỷ giá hối đoái do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh”, tuy nhiên khái niệm “tỷ giá hối đoái thực tế” là chưa rõ ràng, khó xác định.

-         Mặt khác thực tế hiện nay, tại các TCTD các giao dịch ngoại tệ được ghi theo nguyên tệ, cuối ngày mới được hệ thống quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá cuối ngày để lập các báo cáo kế toán.

      → Kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu sửa đổi.

Điều 12. Chữ viết và chữ số sử dụng trong kế toán

-         Khoản 1 Điều 12 quy định “Trường hợp phải sử dụng tiếng nước ngoài trên chứng từ kế toán, sổ kế toán và báo cáo tài chính ở Việt Nam thì phải sử dụng đồng thời tiếng Việt và tiếng nước ngoài”. Đối với ngành Ngân hàng trong thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới hiện nay, hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng phát triển, các giao dịch với các đối tác nước ngoài là thường xuyên, liên tục; các chứng từ giao dịch bằng tiếng nước ngoài là rất nhiều, số lượng lớn. Theo quy định của Luật, các TCTD phải dịch các chứng từ này sang tiếng Việt để hạch toán. Điều này gây khó khăn đối với các Ngân hàng: mất thời gian, chi phí dành cho việc dịch chứng từ dẫn đến thời gian xử lý nghiệp vụ, hạch toán bị chậm chễ.

→ Kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, sửa đổi cho phép: với các chứng từ có mẫu quy định sẵn thì phải dịch các mẫu biểu này sang tiếng Việt; với các chứng từ không có biểu mẫu quy định sẵn, không nhất thiết phải dịch toàn bộ, có thể thực hiện dịch tóm tắt nội dung chứng từ, nghiệp vụ đảm bảo các yếu tố cơ bản quy định về chứng từ kế toán theo Luật kế toán.

-         Khoản 2 Điều 12 Luật kế toán quy định “Sau chữ số hàng nghìn, triệu, tỷ, nghìn tỷ, triệu tỷ, tỷ tỷ phải đặt dấu chấm (.); khi còn ghi chữ số sau chữ số hàng đơn vị phải đặt dấu phẩy (,) sau chữ số hàng đơn vị” là ngược với thông lệ quốc tế (Sau chữ số nghìn, triệu, tỷ … đặt dấu phẩy (,), sau chữ số hàng đơn vị đặt dấu chấm (.). Hiện nay, hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã và đang tham gia cung ứng các dịch vụ thanh toán cả trong và ngoài nước, tham gia nhiều hê thống thanh toán quốc tế. Khi thực hiện các giao dịch thanh toán với nước ngoài, các Tổ chức tín dụng (TCTD) phải tuân thủ thông lệ quốc tế về cách thể hiện chữ số của các hệ thống thanh toán Quốc Tế.

Mặt khác, hiện nay hầu hết các Ngân hàng Việt Nam đang sử dụng hệ thống Core banking của các đối tác nước ngoài, được thiết kế theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế áp dụng cho các Ngân hàng hiện đại. Do đó, để tuân thủ Luật Kế toán, các TCTD phải thực hiện chỉnh sửa chương trình phần mềm. Việc chỉnh sửa này dẫn đến tốn kém chi phí, thời gian, nhân lực và ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các TCTD.

       → Kiến nghị Luật cho phép các Đơn vị có thể sử dụng chữ số theo thông lệ Quốc tế trong hoạt động kế toán tại Đơn vị.

Điều 13. Kỳ kế toán

            Khoản 1 Điều 13 quy định  “Đơn vị kế toán có đặc thù riêng về tổ chức, hoạt động được chọn kỳ kế toán năm là mười hai tháng tròn theo năm dương lịch, bắt đầu từ đầu ngày 01 tháng đầu quý này đến hết ngày cuối cùng của tháng cuối quý trước năm sau và thông báo cho cơ quan tài chính biết”. Nhưng chưa có văn bản nào quy định thế nào là đơn vị kế toán có đặc thù riêng về tổ chức, hoạt động?

            Quy định này cũng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại các nước phát triển, việc chọn kỳ kế toán thuộc quyền của Doanh nghiệp, không nhất thiết đó là Doanh nghiệp có đặc thù về tổ chức và hoạt động. Do đó kiến nghị Luật cho phép các Doanh nghiệp được tự do lựa chọn kỳ kế toán của mình, không giới hạn trong các đơn vị đặc thù.

Điều 14. Các hành vi bị nghiêm cấm

            Kiến nghị Ban soạn thảo bổ sung vào Điều 14 – Các hành vi bị nghiêm cấm:

-         Lập các hệ thống sổ kế toán tài chính khác nhau;

-         Cho thuê, cho mượn chứng chỉ hành nghề kế toán;

-         Lợi dụng kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ và vị trí công tác gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân sử dụng lao động làm kế toán.

Điều 18. Chứng từ điện tử

            Hiện nay tại các Đơn vị kế toán, giao dịch bằng chứng từ điện tử khá phổ biến. Do vây, đề nghị bổ sung 01 chương riêng quy định các nội dung chi tiết của chứng từ điện tử về các nội dung: Lập chứng từ điện tử, Ký chứng từ điện tử, Điều kiện sử dụng chứng từ điện tử, Giá trị pháp lý Chứng từ điện tử, Chuyển đổi chứng từ điện tử sang chứng từ giấy và ngược lại, Huỷ chứng từ điện tử, Lưu trữ chứng từ điện tử, Quản lý, sử dụng , cung cấp chứng từ điện tử…

Điều 19. Lập chứng từ kế toán

-       Khoản 3 Điều 19 đề nghị bổ sung “không dùng bút bay mực”, “các yếu tố viết bằng tay phải do một người viết và cùng một màu mực”.

-       Khoản 6 Điều 19 quy định “Chứng từ điện tử phải được in ra giấy và lưu trữ theo quy định”. Thực tế hiện nay, với tốc độ phát triển của tin học, số lượng các giao dịch điện tử của các Đơn vị kế toán là rất lớn.

            Mặt khác, Điều 15 Luật Giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 ngày 29/11/2005 quy định: “Trường hợp pháp luật yêu cầu chứng từ, hồ sơ hoặc thông tin phải được lưu trữ thì chứng từ, hồ sơ hoặc thông tin đó có thể được lưu trữ dưới dạng thông điệp dữ liệu khi đáp ứng các điều kiện theo quy định”.

      → Đề xuất Ban soạn thảo bổ sung, sửa đổi về việc lưu trữ chứng từ điện tử để phù hợp với tình hình thực tế và quy định tại Luật Giao dịch điện tử.

Điều 20. Ký chứng từ kế toán

            Đề nghị bổ sung thêm quy định đối với người không biết chữ khi ký chứng từ kế toán và bổ sung “Chữ ký trên chứng từ kế toán phải được ký bằng bút mực không phai”.

Điều 21. Hóa đơn bán hàng

            Khoản 3 Điều 21 quy định: “Hóa đơn bán hàng được thể hiện bằng các hình thức sau đây: a) Hóa đơn theo mẫu in sẵn; b) Hóa đơn in từ máy; c) Hóa đơn điện tử; d) Tem, vé, thẻ in sẵn giá thanh toán”.

            Theo khoản 2 Điều 4 NĐ 51/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010 quy định: “Hóa đơn được thể hiện bằng các hình thức sau: a) Hóa đơn tự in … b) Hóa đơn điện tử …c) Hóa đơn đặt in…”

            Quy định giữa Luật kế toán chưa nhất quán với quy định tại NĐ 51/2010/NĐ-CP ngày 14/05/2010.

      → Kiến nghị Luật chỉ quy định về nguyên tắc quản lý và sử dụng hoá đơn, quy định cụ thể do Chính phủ quy định.

Điều 25. Sổ kế toán và hệ thống sổ kế toán

            Hiện nay, quy định về chữ ký và đóng dấu giáp lai trên sổ kế toán là không khả thi trong thực tế, gây khó khăn cho đơn vị. Hơn nữa, hiện nay sổ kế toán của đơn vị in ra từ hệ thống đã có số thứ tự trang nên việc đóng dấu giáp lai là không cần thiết. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, sửa đổi.

Điều 27. Mở sổ, ghi sổ, khoá sổ kế toán

            Khoản 7 Điều 27 quy định “Sau khi khóa sổ kế toán trên máy vi tính phải in sổ kế toán ra giấy và đóng thành quyển riêng cho từng kỳ kế toán năm”. Thực tế, giao dịch điện tử đang phát triển rất nhanh, số lượng giao dịch ngày càng lớn; nếu quy định in ra giấy cho cả kỳ kế toán năm thì khối lượng in ra rất lớn và khó khăn trong việc lưu trữ.

      → Kiến nghị sửa đổi “Sổ kế toán trên máy vi tính được lưu trữ dữ liệu điện tử trên máy, đảm bảo khi cần có thể sử dụng, tra cứu trên máy hoặc in ra giấy theo đúng quy định”.

Điều 28. Sửa chữa sổ kế toán

            Điểm c Khoản 4 Điều 28 quy định phương pháp sửa chữa sổ kế toán trong trường hợp ghi sổ bằng máy vi tính giống như phương pháp sửa chữa sổ kế toán ghi bằng tay là không phù hợp. Kiến nghị, Ban dự thảo nghiên cứu bổ sung, sửa đổi.

Điều 30. Lập báo cáo tài chính

-         Khoản 2 Điều 30 Luật Kế toán quy định: “Việc lập báo cáo tài chính phải căn cứ vào số liệu sau khi khóa sổ kế toán. Đơn vị kế toán cấp trên phải lập báo cáo tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất dựa trên báo cáo tài chính của các đơn vị kế toán trong cùng đơn vị kế toán cấp trên”.

            Khoản 1 Điều 16 Nghị định 129/2004/NĐ-CP ngày 31/05/2004 quy định: “Đơn vị kế toán có các đơn vị kế toán trực thuộc, thì ngoài việc phải lập báo cáo tài chính của đơn vị kế toán đó còn phải lập báo cáo tài chính tổng hợp hoặc báo cáo tài chính hợp nhất vào cuối kỳ kế toán năm dựa trên báo cáo tài chính của các đơn vị kế toán trực thuộc trong cùng đơn vị kế toán đó”.

            Quy định chưa chỉ rõ khi nào phải lập Báo cáo tài  chính tổng hợp, khi nào phải lập BCTC hợp nhất? Điều này dẫn đến tình trạng khó phân biệt 02 loại báo cáo tài chính.

→ Vì vậy đề nghị quy định cụ thể đối tượng nào phải lập báo cáo tài chính tổng hợp và đối tượng nào phải lập báo cáo tài chính hợp nhất.

-         Việc quy định thời hạn nộp báo cáo tài chính cho cơ quan có thẩm quyền trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày kết thúc kỳ kế toán năm chưa phù hợp với đơn vị kế toán có nhiều đơn vị dự toán cấp dưới.

→ Đề nghị kéo dài thời hạn nộp báo cáo tài chính để phù hợp với tình hình thực tiễn.

Điều 35, 36, 37, 38 Mục 4 quy định về Kiểm tra kế toán

            Điều 35 quy định: “Đơn vị kế toán phải chịu sự kiểm tra kế toán của cơ quan có thẩm quyền”. Tuy nhiên chưa có quy định đề cập "Cơ quan có thẩm quyền kiểm tra kế toán" là cơ quan nào?

→ Kiến nghị có Văn bản dưới Luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành việc Kiểm tra kế toán.

Điều 40. Bảo quản, lưu trữ tài liệu kế toán

            Khoản 5 Điều 40 quy định thời hạn lưu trữ cho từng loại tài liệu kế toán chưa thuận lợi trong quá trình thực hiện do tiêu chí phân loại khó áp dụng.

→ Đề nghị phân loại tài liệu kế toán theo: Chứng từ kế toán, Sổ kế toán, Báo cáo kế toán, Tài liệu kế toán khác. Từ đó, sẽ quy định thời hạn lưu trữ theo từng loại tài liệu kế toán này để thuận tiện trong công tác phân loại và lưu trữ trong thực tế.

Điều 49. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán

            Khoản 1 Điều 49 quy định trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán: “Tổ chức bộ máy kế toán, bố trí người làm kế toán, người làm kế toán trưởng”.

Điểm đ Khoản 2 Điều 47 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: Hội đồng thành viên của công ty TNHH hai thành viên trở lên có quyền và nhiệm vụ: “Quyết định bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, ký và chấm dứt hợp đồng đối với Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, Kế toán trưởng”.

Như vậy, quy định trong Luật kế toán mâu thuẫn, chưa thống nhất với Luật Doanh nghiệp.

→  Kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu sửa đổi nội dung này.

Điều 51. Những người không được làm kế toán

            Khoản 3 Điều 37 Luật phòng chống tham nhũng 2005 quy định: “Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ quản lý về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ, làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giao dịch, mua bán vật tư, hàng hoá, ký kết hợp đồng cho cơ quan, tổ chức, đơn vị đó”.

→ Kiến nghị Ban soạn thảo nghiên cứu bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với Luật Phòng chống tham nhũng.

→ Ngoài ra, đề nghị xem xét, bổ sung thêm trường hợp đơn vị kế toán là công ty cổ phần gia đình, DN tư nhân… bởi khi đó những những người không được làm kế toán quy định tại Điều 51 không còn phù hợp.

Điều 56. Thuê làm kế toán, thuê làm kế toán trưởng

            Khoản 4 Điều 56 quy định: “Người được thuê làm kế toán trưởng phải có đủ tiêu chuẩn và điều kiện quy định tại Điều 53 của Luật này” (có chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng).

Khoản 3 Điều 39 NĐ 129/2004/NĐ-CP ngày 31/05/2004 quy định: “Người được thuê làm kế toán trưởng phải có đủ các điều kiện: a) Có chứng chỉ hành nghề dịch vụ kế toán theo quy định tại Điều 57 của Luật Kế toán; b) Có chứng chỉ bồi dưỡng kế toán trưởng theo quy định của Bộ Tài chính”.

Như vậy, quy định giữa Luật Kế toán không thống nhất với Nghị định 129/2004/NĐ-CP. Đồng thời quy định này không có tính khả thi.

→ Đề nghị, Ban soạn thảo xem xét sửa đổi bổ sung.

Điều 57. Chứng chỉ hành nghề kế toán

            Điểm b Khoản 1 Điều 57 quy định: “Công dân Việt Nam được cấp chứng chỉ hành nghề kế toán phải có chuyên môn, nghiệp vụ về tài chính, kế toán từ trình độ đại học trở lên”. Điều kiện "trình độ từ đại học trở lên" là quá chặt chẽ, không cần thiết đối với dịch vụ kế toán và không phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thực tế hiện nay tại các nước phát triển, một người sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề kế toán nếu họ có bằng ACCA (the Association of Chartered Certified Accountants) của Hiệp hội Kế toán công chứng Anh mà không quan tâm việc người đó có tốt nghiệp Đại học hay không.

→ Do vậy, kiến nghị Ban soạn thảo xem xét sửa đổi.       

2.2.  Đánh giá về mối quan hệ chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp giữa quy định của Luật kế toán với quy định của các luật, pháp lệnh, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan    

Từ thực tiễn hoạt động kinh doanh và trong quá trình nghiên cứu các văn bản pháp luật liên quan cho thấy: Luật kế toán 2003 là một trong những văn bản pháp luật có nhiều tác động tích cực đối với hoạt động tài chính kế toán của các doanh nghiệp Việt Nam, bên cạnh đó hiện nay còn tồn tại một số vấn đề sau:

Hệ thống các quy định, quy phạm pháp luật liên quan Luật kế toán của nước ta hiện nay là không đồng bộ, chưa rõ ràng, chưa phù hợp thực tiễn; thường xuyên thay đổi mà không thể dự báo trước được, tính khả thi trên thực tế chưa cao. Thực tế cũng có khá nhiều những hạn chế, bất cập trở thành những vật cản gây khó khăn, ách tắc cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể:

            Các quy định của Luật Kế toán hiện nay còn chồng chéo, mâu thuẫn, trùng lặp với quy định của các Luật, Pháp lệnh, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Sự thiếu thống nhất với những mức độ khác nhau, đã phá vỡ sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động kế toán tài chính ở nước ta. Như sự không nhất quán về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán trong việc lựa chọn, bổ nhiệm hoặc ký hợp đồng lao động với kế toán trưởng; sự thiếu thống nhất giữa quy định về hoá đơn bán hàng của Luật kế toán, Nghị định 129/2004/NĐ-CP với Nghị định 51/2010/NĐ-CP; giữa quy định về đối tượng kế toán, yêu cầu kế toán, nguyên tắc kế toán trong Luật kế toán với Chuẩn mực kế toán; giữa Luật Kế toán Việt Nam với thông lệ quốc tế… Trong Luật kế toán 2003 có một số nội dung chưa được quy định như: Giám đốc tài chính; đạo đức nghề nghiệp kế toán... Điều này gây ra những khó khăn lớn cho các doanh nghiệp trong hợp tác đầu tư, kinh doanh với các đối tác nước ngoài.

2.3.  Xác định những vấn đề phát sinh trong thực tiễn hoạt động tài chính, kế toán chưa được pháp luật quy định và cần được pháp luật điều chỉnh

Thực tế cho thấy hệ thống pháp lý nói chung và các quy phạm pháp luật liên quan đến Luật kế toán của nước ta còn nhiều bất cập, có nhiều khoảng trống, không đầy đủ. Đã có rất nhiều vấn đề mới đã phát sinh trong thực tế nhưng chưa được Luật điều chỉnh. Những khoảng trống của Luật kế toán bao gồm :

-         Hợp tác quốc tế về kế toán: Luật kế toán được ban hành khi Việt Nam chưa gia nhập Tổ chức thương mại Thế giới nên vấn đề hợp tác quốc tế về kế toán chưa được quy định trong Luật. Điều đó dẫn tới: Những vấn đề quan trọng về quản lý công tác kế toán; quản lý đạo đức nghề nghiệp kế toán của nước ta chưa tương thích với Luật, chế độ kế toán của các nước phát triển; Thiếu hành lang pháp lý cho các hoạt động kế toán diễn ra theo lộ trình mở cửa mà Việt Nam đã cam kết khi gia nhập WTO. Luật quy định nhiều vấn đề về kế toán doanh nghiệp dựa trên một hệ thống kế toán thủ công, hạn chế việc ứng dụng công nghệ thông tin và thương mại điện tử.

-         Đạo đức nghề nghiệp kế toán: Luật Kế toán chưa quy định về đạo đức nghề nghiệp kế toán, của người hành nghề kế toán. Do đó đã dẫn đến: Người làm kế toán vi phạm đạo đức nghề nghiệp, gây hậu quả cho chủ doanh nghiệp và người sử dụng dịch vụ kế toán; đồng thời cũng chưa có hành lang pháp lý để xử lý vi phạm.

-         Giám đốc tài chính của doanh nghiệp: Luật Kế toán và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan đến quản lý tài chính, kế toán của DN đều chưa có quy định về Giám đốc tài chính. Trong thực tế, nhiều DN đặc biệt là các DN có vốn đầu tư nước ngoài, các Công ty cổ phần đã niêm yết trên thị trường chứng khoán đã bổ nhiệm Giám đốc tài chính với quyền hạn lớn hơn Kế toán trưởng. Việc chưa có quy định về Giám đốc tài chính là một khoảng trống pháp lý trong công tác quản lý tài chính và kế toán DN ở nước ta hiện nay.

-         Chứng từ điện tử trong kế toán doanh nghiệp: Chưa có quy định về Chứng từ điện tử trong Kế toán doanh nghiệp. Điều đó hạn chế việc áp dụng tiến bộ khoa học về công nghệ thông tin trong các đơn vị kế toán.

-         Đào tạo và nghiên cứu khoa học về kế toán: Luật Kế toán chưa quy định về công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về kế toán. Do dó, có trường hợp không đủ điều kiện đào tạo về kế toán nhưng vẫn tổ chức đào tạo về kế toán; Công tác nghiên cứu khoa học về kế toán cũng chưa được coi trọng đúng mức.

-         Trách nhiệm khi chia tách, sát nhập, chuyển đổi hình thức sở hữu, giải thể, phá sản: Kiến nghị bổ sung quy định về công việc kế toán trong trường hợp chia tách, sáp nhập, chuyển đổi hình thức sở hữu, giải thể, phá sản. Trong đó bổ sung thêm quy định trách nhiệm của đơn vị mới và đơn vị cũ trong việc lưu trữ tài liệu sau khi chia tách, sáp nhập, chuyển đổi hình thức sở hữu, giải thể, phá sản và trách nhiệm về mặt pháp lý đối với các tài liệu kế toán đã thực hiện.

-         Yêu cầu quản lý: Quy định về quản lý Nhà nước về kế toán trong Luật Kế toán là những nguyên tắc chung, các văn bản dưới Luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành cũng chưa quy định cụ thể hơn. Thực tế những nội dung về kiểm tra kế toán quy định trong Luật Kế toán chưa được triển khai.

-         Ngoài ra đề nghị xem xét bổ sung quy định đối với trường hợp người đại diện theo pháp luật của đơn vị kế toán chịu trách nhiệm tổ chức bảo quản, lưu trữ tài liệu kế toán không còn đủ tư cách pháp nhân (như bị tạm giam) hoặc đồng thời xảy ra trường hợp đơn vị kế toán đó bị giải thể mà không có đơn vị kế toán cấp trên thì công việc kế toán khi đó được thực hiện ra sao?

3.      Những định hướng cơ bản nhằm sửa đổi, bổ sung Luật kế toán năm 2003 và đề xuất, kiến nghị

Để hoàn thiện và phát triển Luật Kế toán trở thành một trong những công cụ quan trọng và có hiệu quả trong việc quản lý nền kinh tế quốc dân, tạo dựng những điều kiện để hội nhập về kế toán với khu vực và thế giới, quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Kế toán cần xem xét một số vấn đề sau:

-         Luật kế toán mới cần được xây dựng trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tế 9 năm thực hiện Luật Kế toán 2003 và thực trạng hoạt động kế toán hiện nay; kế thừa những mặt tích cực, những quy định còn phù hợp của Luật 2003 và đồng bộ, thống nhất với nội dung các luật hiện hành.

-         Bổ sung một số quy định về các điều khoản hành nghề kế toán, công tác kế toán trong điều kiện hiện đại hóa (chứng từ điện tử, giao dịch điện tử) và xem xét lại một số quy định mang tính thủ công (xử lý sai sót khi ghi sổ kế toán, thực hiện một số các công việc kế toán khi bàn giao sáp nhập, hợp nhất đơn vị kế toán).

-         Xem xét cập nhật các nội dung thay đổi của chuẩn mực kế toán quốc tế theo lộ trình, chuẩn mực nào phù hợp với đặc điểm Việt Nam thì công bố trước, chuẩn mực nào còn có khác biệt thì nghiên cứu xây dựng chuẩn mực của Việt Nam để phù hợp hơn.

-         Luật Kế toán mới cần được sửa đổi để vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa dự kiến được xu hướng phát triển hoạt động kế toán trong tương lai, tham khảo chọn lọc nội dung Luật Kế toán các nước, các chuẩn mực, nguyên tắc, thông lệ kế toán quốc tế.

-         Quy định chi tiết hơn về quy mô và lực lượng kiểm tra, giám sát tuân thủ pháp luật về kế toán thông qua hệ thống thanh tra, kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập.

-         Bổ sung quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm kế toán.

-         Quá trình xây dựng Luật kế toán cần bảo đảm được tính thống nhất của hệ thống pháp luật, không có sự mâu thuẫn, chồng chéo với nhau.

Trên đây là báo cáo Tổng kết 9 năm thi hành Luật Kế toán 2003 của NHTMCPCTVN, kính chuyển Ban Pháp Chế - Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tham khảo, tổng hợp./.

                                                                               

Các văn bản liên quan