Bản tổng hợp ý kiến của VCCI về Dự thảo Luật thuế môi trường
PHÒNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT ----------------------------- Số: 3784 /PTM-PC |
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ---------------------------------- Hà Nội, ngày 21 tháng 12 năm 2009 |
Kính gửi: BỘ TÀI CHÍNH
(V/v: góp ý Dự thảo Luật thuế môi trường)
Bộ Tài chính đã gửi Công văn số 15907/BTC-CST về việc
xin ý kiến đóng góp về dự án Luật thuế môi trường tới Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam (VCCI). VCCI đã gửi Phiếu khảo sát về những quy định trong Dự
thảo Luật thuế môi trường tới hơn 300 doanh nghiệp trong cả nước. Các doanh
nghiệp được lựa chọn gồm những doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu những sản phẩm
là đối tượng chịu thuế môi trường, những doanh nghiệp sử dụng các sản phẩm là
đối tượng chịu thuế môi trường, các hiệp hội và các chuyên gia. Trên cơ sở các
ý kiến phản hồi, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
1.
Về sự cần thiết ban hành Luật thuế
môi trường
Theo Báo cáo Hiện trạng Môi trường quốc gia năm 2005
môi trường Việt
2.
Về phương pháp xây dựng thuế môi
trường
Thuế môi trường có thể được xây dựng theo hai cách:
Thứ nhất, thuế đánh trực tiếp vào các hoạt động tạo ra
chất phát thải gây ô nhiễm môi trường (khí thải, nước thải, chất thải rắn);
Thứ hai, thuế đánh gián tiếp vào các sản phẩm mà việc
sản xuất, nhập khẩu và sử dụng chúng sẽ gây ra những tác hại đối với môi
trường.
Cách đánh thuế môi trường thứ nhất nêu trên gặp phải
khó khăn rất lớn, đó là việc quản lý, xác định mức độ ô nhiễm của từng hoạt
động tạo ra chất phát thải để xác định căn cứ tính thuế và thu thuế rất khó
thực hiện ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Cách đánh thuế thứ hai phần nào khắc
phục được khó khăn trên khi đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm ngay từ khâu sản
xuất, nhập khẩu, từ đó, có thể quản lý được việc kinh doanh, sử dụng các sản
phẩm này, tạo ý thức về gìn giữ môi trường cho các đối tượng trong xã hội khi
sản xuất, nhập khẩu, phân phối và sử dụng các sản phẩm gây ô nhiễm này, đồng
thời huy động được nguồn thu góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường.
Việc đề xuất xây dựng Luật thuế Bảo vệ môi trường theo
cách thứ hai như trong Dự thảo là hợp lý trong điều kiện hiện nay ở Việt
3.
Về đối tượng chịu thuế
Về nguyên tắc, các sản phẩm nào mà
việc sản xuất, khai thác, nhập khẩu, kinh doanh, sử dụng chúng có gây tác hại
đến môi trường đều thuộc diện chịu thuế môi trường. Tuy nhiên, không phải trong
bất cứ điều kiện nào, nguyên tắc trên cũng có thể thực hiện được. Việc xác định
đối tượng chịu thuế môi trường phụ thuộc nhiều vào khả năng quản lý, kiểm soát,
đánh giá và thực thi chính sách về chuyên môn kỹ thuật, về hành chính, kinh tế
và tài chính. Phần lớn các doanh nghiệp được hỏi, đồng tình với quy định của Dự
thảo Luật khi chỉ lựa chọn một số hạn chế loại sản phẩm có sản lượng lớn, tác
động chung trên diện rộng, tác động xấu đến môi trường rõ rệt khi sử dụng và có
thể quản lý thu thuế được, đồng ý với các sản phẩm đưa vào diện chịu thuế trong
Dự thảo Luật.
Tuy nhiên, Tổng Công ty thuốc lá Việt
-
Thuốc
lá thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt với thuế suất khá cao là 65%.
Trên thế giới các nước đều quản lý và chi phối việc ảnh hưởng của tác hại thuốc
lá thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và không đưa thuốc lá vào diện chịu
thuế môi trường;
-
Công
nghiệp sản xuất thuốc lá chưa phải là lĩnh vực, ngành hàng gây ô nhiễm môi
trường trầm trọng. Thực tế cho thấy các chỉ tiêu phát thải của ngành công
nghiệp sản xuất thuốc lá đều nằm trong giới hạn tiêu chuẩn cho phép xét trên
bình diện từng quốc gia. Mặt khác, hiện tại các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá
Việt
-
Nếu
đánh thuế môi trường đối với sản phẩm thuốc lá thì sẽ gây khó khăn cho các
doanh nghiệp thuốc lá trong sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến người lao động
trong các đơn vị sản xuất của Tổng công ty thuốc lá và nông dân vùng trồng
nguyên liệu, …
Về hai nhóm sản phẩm đang có nhiều ý kiến khác nhau:
-
Nhóm sản phẩm là thuốc bảo vệ thực
vật: các chất hóa
học được dùng trong hoạt động sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu
và các loại hóa chất khác (chất kích thích tăng trưởng, chất bảo quản) đều có
gây tác hại đến môi trường đất, môi trường nước, môi trường không khí và gây
tác hại cho sức khỏe của con người. Hơn nữa, các loại thuốc này không chỉ gây
độc hại trong quá trình sử dụng mà cón có thể gây độc hại ngay trong quá trình
sản xuất, cất trữ. Chính vì vậy, cần phải đưa thêm các sản phẩm này vào diện
chịu thuế. Quy định như thế sẽ đảm bảo quản lý và điều tiết được tất cả các
loại chất hóa học độc hại đối với môi trường này và tác dụng bảo vệ môi trường
của thuế sẽ được rõ rệt hơn, thể hiện ở chỗ khuyến khích sử dụng các công nghệ
sản xuất sạch, an toàn, hạn chế sử dụng các sản phẩm độc hại trong sản xuất nông
nghiệp. Việc đánh thuế môi trường vào các sản phẩm này sẽ làm cho gánh nặng đối
với người nông dân sẽ tăng lên, Nhà nước có thể xử lý vấn đề này bằng những sự
hỗ trợ hợp lý cho người nông dân trong quá trình sản xuất;
-
Nhóm sản phẩm năng lượng thủy điện,
nhiệt điện, điện hạt nhân: đây là loại sản phẩm có thể được sản xuất ra từ các sản phẩm đã chịu
thuế môi trường (nhiệt điện, khí thiên nhiên) hoặc được sản xuất từ các nguồn
năng lượng tái sinh (sức gió, mặt trời, thủy điện, khí sinh học). Theo các
chuyên gia được hỏi ý kiến, hiện tại sẽ không đánh thuế vào loại sản phẩm này,
bởi vì: thứ nhất, các tác hại về môi trường của quá trình sản xuất loại sản
phẩm này không lớn (điện từ các nguồn năng lượng tái sinh); thứ hai, sản phẩm
đầu vào để sản xuất sản phẩm này đã chịu thuế môi trường (nhiệt điện, điện từ
khí thiên nhiên); thứ ba, hiện nay ở Việt Nam áp dụng bảng giá điện tăng lũy tiến
theo sản lượng tiêu thụ, do vậy đã có tác dụng khuyến khích sử dụng điện tiết
kiệm, có hiệu quả. Chính vì thế, không nên đánh thuế vào điện năng mà tiếp tục
quản lý, xây dựng mức giá điện hợp lý có tính mức lũy tiến theo sản lượng tiêu
thụ sẽ có tác dụng sử dụng hợp lý điện, hạn chế ô nhiễm môi trường; số thu phụ
trội trên giá điện này cần được sử dụng một phần vào mục tiêu bảo vệ môi
trường; đồng thời tăng cường công tác quản lý sản xuất, sử dụng điện và các vấn
đề kỹ thuật trong xử lý chất thải do việc sản xuất, sử dụng điện gây ra.
4.
Về đối tượng không chịu thuế
Đối tượng không chịu thuế trong Dự thảo Luật là hợp
lý, tuy nhiên cần thiết kế Điều luật này như sau:
Đối tượng không chịu thuế môi trường là các sản phẩm:
1. Không thuộc đối tượng quy định tại Điều
2 Luật này
2. Là các sản phẩm thuộc đối tượng chịu
thuế môi trường quy định tại Điều 2 Luật này trong các trường hợp sau:
-
Hàng
hóa vận chuyển quá cảnh qua cửa khẩu biên giới Việt
-
Hàng
tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu không phải nộp thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu
trong thời hạn quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.
Bỏ “sản phẩm thân thiện với môi trường” vì sản phẩm
này không nằm trong trường hợp “không thuộc đối tượng quy định tại Điều 2 của
Luật này”.
5.
Về căn cứ tính thuế và Biểu khung
thuế môi trường
Phần lớn doanh nghiệp trong đợt khảo sát này đều đồng
ý với phương án áp dụng mức thuế suất tuyệt đối đối với thuế môi trường, nguyên
tắc xây dựng biểu khung thuế môi trường
và nguyên tắc xác định mức thuế tuyệt đối cho từng sản phẩm ở từng thời
kỳ khác nhau như trong Dự thảo Luật. Tuy nhiên, để tạo tâm lí ổn định cho doanh
nghiệp, các nhà đầu tư, đề nghị Dự thảo đưa ra nguyên tắc về việc xác định mức
thuế cho từng thời kì (khi nào thì áp dụng mức thuế tối đa, tối thiểu hay mức
trung bình trong biểu khung thuế đó).
Một số doanh nghiệp có ý kiến, đối với thuốc lá thuế
suất nên dựa trên cơ sở hàm lượng Nicotin và Tar vì đó là yếu tố gây tác động
xấu đến môi trường và sức khỏe con người.
Một số doanh nghiệp, chuyên gia lưu ý đến mức thuế
suất đối với các sản phẩm như: xăng, nhiên liệu bay, dầu diesel, dầu hỏa, dầu
mazut, dầu nhờn, mỡ nhờn vì đây là các mặt hàng thiết yếu và việc đánh thuế cao
đối với các sản phẩm này có thể ảnh hưởng đến giá thành của các mặt hàng tiêu
dùng khác và người chịu thiệt hại là những người tiêu dùng.
6.
Các vấn đề khác
Luật thuế Bảo vệ môi trường là một sắc thuế mới, có
mối quan hệ với các sắc thuế khác như: Thuế Nhập khẩu, Thuế Tài nguyên, Thuế
Tiêu thụ đặc biệt và các khoản Phí hiện hành liên quan đến bảo vệ môi trường.
Do vậy, trong quá trình ban hành Luật thuế môi trường nói riêng, hoàn thiện hệ
thống thuế nói chung, cần nghiên cứu tạo ra sự đồng bộ, thống nhất giữa các sắc
thuế, khoản phí, tránh sự trùng lặp, chống chéo. Cụ thể:
-
Hiện
tại, thuế tiêu thụ đặc biệt đã có các quy định đánh thuế đối với các sản phẩm
là thuốc lá và các chế phẩm từ cây thuốc lá, xăng và các chế phẩm pha chế xăng
cả ở khâu sản xuất trong nước và khâu nhập khẩu. Một mục tiêu quan trọng của
thuế tiêu thụ đặc biệt khi đánh vào các sản phẩm này là hạn chế việc sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng các sản phẩm gây ô nhiễm môi trường và gây tác hại cho
sức khỏe con người. Như vậy, xét trên góc độ đó, việc đánh thuế môi trường vào
các sản phẩm này sẽ có sự trùng lặp với thuế tiêu thụ đặc biệt. Do đó, cần cân
nhắc và tách bạch cụ thể các mục tiêu của từng sắc thuế khi cùng đánh vào các
sản phẩm này.
-
Các
khoản phí nhằm mục đích bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt
Về quản lý nguồn thu từ thuế môi trường, cần có quy
định cụ thể hơn về tỷ lệ điều tiết nguồn thu giữa ngân sách trung ương và ngân
sách địa phương, cơ chế quản lý và sử dụng nguồn thu ở các cấp. Mục đích chính
của nguồn thu từ thuế môi trường là ưu tiên sử dụng cho mục tiêu bảo vệ môi
trường, do đó có thể coi đây là một loại thuế chuyên dùng nên các quy định về
quản lý, sử dụng nguồn thu này phải rất cụ thể, rõ ràng.
Vì đây là Luật thuế mới nên cần đưa ra lộ trình áp
dụng và đánh giá tác động của văn bản này một cách kĩ càng để đạt được mục tiêu
đề ra.
Trên đây là một
số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật
thuế môi trường. Rất mong cơ quan soạn thảo lưu ý xem xét, cân nhắc để hoàn thiện
Dự thảo.
Trân
trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
Nơi nhận: -
Như trên; -
|
T/L. CHỦ TỊCH TRƯỞNG BAN PHÁP CHẾ (đã ký) TRẦN HỮU HUỲNH |