VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định quy định về đầu tư ra nước ngoài
Kính gửi: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trả lời Công văn số 6199/BKHĐT-ĐTNN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc lấy ý kiến Dự thảo Nghị định quy định về đầu tư ra nước ngoài (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến ban đầu như sau:
- Hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài của Thủ tướng Chính phủ (Điều 16)
Theo Điều 16 Dự thảo quy định, trong hồ sơ phải có các tài liệu:
- (1) Văn bản của cơ quan thuế xác nhận việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của nhà đầu tư (khoản 3);
- (2) Tài liệu xác định hình thức đầu tư ra nước ngoài (khoản 4);
- (3) Văn bản của tổ chức tín dụng xác nhận số dư tài khoản ngoại tệ của nhà đầu tư trong trường hợp nhà đầu tư cam kết tự thu xếp ngoại tệ (khoản 5)
Quy định trên cần được cân nhắc, xem xét ở một số điểm sau:
- Thông tin trong tài liệu (1), giữa các cơ quan quản lý nhà nước có thể trao đổi với nhau, vì vậy không cần thiết phải yêu cầu nhà đầu tư nộp loại tài liệu này. Vì vậy, để đảm bảo tinh thần đơn giản hóa thủ tục hành chính, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định tại khoản 3, điều chỉnh quy định về trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận theo hướng, trong quá trình thẩm định hồ sơ, cơ quan cấp giấy chứng nhận có thể trao đổi thông tin với cơ quan quản lý thuế để kiểm tra về điều này của nhà đầu tư;
- Tài liệu (2): Điều 10 Dự thảo quy định các loại tài liệu xác định hình thức đầu tư ra nước ngoài của các hình thức đầu tư theo hợp đồng, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia quản lý của tổ chức kinh tế đó. Quy định này được hiểu, nếu nhà đầu tư thực hiện đầu tư ra nước ngoài bằng hình thức thành lập tổ chức kinh tế ở nước ngoài thì trong hồ sơ không cần phải có giấy tờ xác định hình thức đầu tư.
Lý do của sự khác biệt trong hồ sơ giữa các hình thức này là vì “khó có tài liệu chứng minh việc dự kiến thành lập tổ chức kinh tế ở nước ngoài, trừ khi tổ chức đó đã được thành lập”, “quan điểm hiện hành là không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục đầu tư ở nước ngoài trước rồi mới làm thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài (GCNĐK ĐTRNN) ở Việt Nam nhằm tạo điều kiện cho nhà đầu tư linh hoạt trong việc thực hiện các thủ tục và hạn chế xảy ra trường hợp đã thực hiện thủ tục ở nước ngoài nhưng sau đó không được cấp GCNĐK ĐTRNN ở Việt Nam” (điểm 1.7 mục III Tờ trình).
Với lý do được giải trình ở trên thì việc yêu cầu tài liệu này cho hình thức đầu tư theo hợp đồng, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp của tổ chức kinh tế ở nước ngoài để tham gia quản lý của tổ chức kinh tế đó là chưa hợp lý. Bởi vì, trong hình thức đầu tư này, nhà đầu tư cũng có thể mới có dự kiến đầu tư và chưa thực hiện bất kì thủ tục đầu tư nào ở nước ngoài. Do đó, nhà đầu tư cũng không thể cung cấp được các loại tài liệu xác định hình thức đầu tư quy định tại Điều 10 Dự thảo. Hơn nữa, việc yêu cầu phải có tài liệu xác định hình thức đầu tư tại thời điểm xin cấp GCNĐK ĐTRNN là đi ngược lại quan điểm được thể hiện trong tờ trình trên.
Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định tại khoản 4.
- Tài liệu (3): Việc nhà đầu tư phải có văn bản của tổ chức tín dụng xác nhận số dư tài khoản ngoại tệ trong trường hợp cam kết tự thu xếp ngoại tệ là chưa phù hợp, bởi vì theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 57, khoản 1 Điều 58 Luật Đầu tư 2020 thì nhà đầu tư phải nộp “cam kết tự cân đối nguồn ngoại tệ hoặc văn bản cam kết thu xếp ngoại tệ cho nhà đầu tư của tổ chức tín dụng được phép” trong trường hợp nhà đầu tư tự thu xếp ngoại tệ. Do đó, Dự thảo yêu cầu tài liệu này là chưa thống nhất với quy định tại Luật Đầu tư 2020, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định tại khoản 5.
- Trình tự, thủ tục giải quyết thủ tục hành chính
Dự thảo có một số quy định về trình tự, thủ tục để được cấp phép. Về cơ bản, các quy định này rõ ràng, cụ thể về các bước và thời gian thực hiện. Tuy nhiên, để thực sự đảm bảo tính minh bạch và thuận lợi trong quá trình triển khai, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét một số điểm sau:
- Thời gian kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ chưa được quy định rõ. Điều này có thể khiến cho quy trình thủ tục bị kéo dài, gây khó khăn cho nhà đầu tư. Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định về thời gian xem xét tính hợp lệ của hồ sơ quy định tại các Điều 17, 19, 21, 23
- Thời hạn thẩm định hồ sơ của thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài của Thủ tướng Chính phủ
Theo quy định tại khoản 6 Điều 17 Dự thảo thì trong giai đoạn thẩm định và lập báo cáo thẩm định trình Thủ tướng Chính phủ, nếu có nội dung cần làm rõ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, quy định này không rõ là thời hạn lấy ý kiến của nhà đầu tư có được tính vào thời hạn tổ chức thẩm định quy định tại khoản 4 Điều 58 Luật Đầu tư 2020 không? Nếu không thì thời hạn này là bao lâu? Để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về vấn đề này tại Dự thảo.
Góp ý tương tự đối với khoản 6 Điều 19.
- Thời hạn cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài trong trường hợp bị mất, cháy, rách, nát hoặc bị hỏng dưới hình thức khác là 15 ngày kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị của nhà đầu tư (khoản 1 Điều 26). Đây là khoảng thời gian quá dài để cấp lại Giấy chứng nhận trong trường hợp đơn giản trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc rút ngắn thời hạn này lại khoảng 5 ngày làm việc.
- Quy định chuyển tiếp
Về việc xử lý hồ sơ đầu tư ra nước ngoài nộp trước ngày 01/01/2021, khoản 3 Điều 46 Dự thảo quy định:
Hồ sơ đã tiếp nhận và thời hạn giải quyết theo quy định của Luật Đầu tư 2014 là trước hoặc trong ngày 01/01/2021, cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thực hiện thủ tục cấp GCNĐK ĐTRNN theo quy định của Luật Đầu tư 2020. Trong quá trình thực hiện thủ tục cấp GCNĐK ĐTRNN cơ quan cấp không yêu cầu nhà đầu tư bổ sung hồ sơ, giấy tờ theo quy định của Luật Đầu tư 2020.
Việc áp dụng quy định của Luật Đầu tư 2020 cho trường hợp hồ sơ được tiếp nhận và thời hạn giải quyết thủ tục trước ngày 01/01/2021 là chưa phù hợp, vì thời hạn này Luật Đầu tư 2014 vẫn đang có hiệu lực và đang được áp dụng để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến trình tự, thủ tục đầu tư.
Đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định trên theo hướng: hồ sơ đã tiếp nhận và thời hạn giải quyết theo quy định của Luật Đầu tư 2014 là trước ngày 01/01/2021, cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thực hiện thủ tục cấp GCNĐK ĐTRNN theo quy định của Luật Đầu tư 2014. Đối với trường hợp thời hạn giải quyết là trong ngày 01/01/2021 thì sẽ được giải quyết như trường hợp quy định tại điểm b khoản 3 Điều 46 Dự thảo.
Trên đây là một số ý kiến tổng hợp ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định về đầu tư ra nước ngoài. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.