VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định về giao khu vực biển

Thứ Hai 09:24 13-08-2018

Kính gửi: Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam

       Bộ Tài nguyên và Môi trường

Trả lời Công văn số 2952/BTNMT-TCBHĐVN của Bộ Tài nguyên và Môi trường về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

  1. Về nguyên tắc giao khu vực biển (Điều 4)

Khoản 6 Điều 4 Dự thảo quy định trường hợp ngoại lệ không phải áp dụng việc giao khu vực biển theo trình tự, thủ tục theo quy định tại Nghị định này: trường hợp xảy ra thiên tai, bão, lũ, cần phải giao khu vực biển để thực hiện các hoạt động nhằm khắc phục hậu quả. Cụ thể, với trường hợp này, Dự thảo Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét quyết định giao ngay khu vực biển, sau khi thống nhất với Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Việc quy định thủ tục riêng, rút gọn, cho trường hợp khẩn cấp này là cần thiết. Tuy nhiên, cũng vì yêu cầu khẩn cấp, Dự thảo cần phải quy định rõ về thủ tục này để việc triển khai cho thể thực hiện ngay, ví dụ:

  • Trình tự thủ tục “giao ngay” là như thế nào? Giao cho ai? Chủ thể được giao có phải làm thủ tục gì để Ủy ban nhân dân cấp tỉnh “giao ngay” không?
  • Thời hạn giao khu vực biển trong trường hợp khẩn cấp này là bao lâu? Sau thời hạn này thì Nhà nước sẽ thu hồi hay chủ thể được giao sẽ phải trả lại? Trình tự thủ tục như thế nào?

Để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện trên thực tế, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ những vấn đề trên.

  1. Về thời hạn giao khu vực biển (Điều 6)

Theo quy định tại Điều 6 thì tổng thời hạn tối đa được giao khu vực biển là 50 năm (30 năm, gia hạn nhiều lần không quá 20 năm) (khoản 1).

Dự thảo quy định 02 ngoại lệ: (i) Trường hợp thời hạn giao khu vực biển hết nhưng thời hạn giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên còn hiệu lực thì sẽ được xem xét để cấp mới quyết định giao khu vực biển (khoản 2); (ii) trước thời điểm Nghị định này có hiệu lực, nếu khu vực biển đã được giao trên 30 năm và được trả tiền một lần cho cả thời hạn thuê thì được xem xét để công nhận thời hạn sử dụng khu vực biển bằng thời hạn quyết định giao, cho thuê đất có mặt nước, mặt nước biển nêu trên (khoản 3).

Quy định thời hạn chung và các trường hợp ngoại lệ như trên được hiểu là nhằm thiết lập khung khổ chung thống nhất, đồng thời vẫn bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư trong trường hợp Nhà nước đã có cam kết khác về thời hạn liên quan tới việc đầu tư.

Tuy nhiên, việc quy định thời hạn tối đa giao khu vực biển (dù đã có những ngoại lệ) vẫn cần được xem xét lại bởi ít nhất các lý do sau:

Thứ nhất, những trường hợp “ngoại lệ” tương đối phổ biến nên có thể xảy ra tình trạng quy định tại khoản 1 (thời hạn tối đa 50 năm) không còn ý nghĩa, trong khi lại khiến nhà đầu tư bất an.

Ví dụ đối với trường hợp thời hạn giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên có thời hạn dài hơn thời hạn tối đa quy định tại khoản 1(trường hợp tại khoản 2):Theo quy định tại Điều 43 Luật đầu tư 2014 thì thời hạn tối đa của dự án đầu tư trong khu kinh tế là 70 năm. Trên thực tế các nhà đầu tư thường sẽ đăng ký thời hạn tối đa được phép. Như vậy, áp dụng vào trường hợp tại khoản 1, nếu nhà đầu tư được chấp thuận chủ trương đầu tư dự án ở khu vực biển trong khu kinh tế (70 năm) thì sẽ phải thực hiện ít nhất 02 lần cấp mới (năm thứ 1 và năm thứ 51) và 01 lần xin gia hạn giấy phép (năm thứ 31). Mỗi lần xin gia hạn hoặc cấp mới, nhà đầu tư sẽ có nguy cơ không tiếp tục được dự án đầu tư (bởi vẫn tồn tại khả năng bị cơ quan có thẩm quyền từ chối cấp mới/gia hạn). Điều này sẽ khiến cho tâm lý của nhà đầu tư trở nên thiếu ổn định và tạo ra gánh nặng về thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư.

Thứ hai, việc đặt thời hạn tối đa cứng cho việc giao khu vực biển cũng có thể tạo ra nguy cơ lãng phí nguồn tài nguyên.

Ví dụ trường hợp thời hạn giao biển tại khoản 1 nói trên dài hơn thời hạn giấy phép khai thác sử dụng tài nguyên, có thể xảy ra tình huống giấy phép khai thác hết nhưng thời hạn giao khu vực biển vẫn còn. Khi đó, khu vực biển sẽ bị rơi vào tình trạng “để không”, khi chủ đầu tư không có quyền khai thác nữa và cũng không được phép cho thuê hay chuyển nhượng lại. Trong khi các nhà đầu tư khác lại muốn vào nhưng lại phải chờ vì chưa hết thời hạn giao khu vực biển của nhà đầu tư cũ. Điều này gây ra sự lãng phí về tài nguyên.

Trong khi đó, theo quy định tại Điều 10 Dự thảo thì việc giao khu vực biển sẽ căn cứ vào việc “tổ chức, cá nhân đã được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển ở khu vực biển đề nghị giao”.

Do đó, để tránh các hiện tượng ở trên và phù hợp với các quy định khác trong Dự thảo, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại toàn bộ quy định về thời hạn giao khu vực biển tại Điều 6 theo hướng: Quy tắc chung: thời hạn giao biển tương ứng với thời hạn của giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển ở khu vực biển của Nhà đầu tư (và để tránh hiểu nhầm, thời hạn này nên xác định thời điểm hết hạn cụ thể, trùng với thời điểm hết hạn giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển

  1. Thẩm quyền giao, công nhận, trả lại khu vực biển; gia hạn, sửa đổi, bổ sung quyết định giao khu vực biển (Điều 9)

Khoản 2, 3 Điều 9 Dự thảo quy định về thẩm quyền giao, công nhận, trả lại khu vực biển; gia hạn sửa đổi, bổ sung quyết định giao khu vực biển của chính quyền địa phương, theo hướng quy định cụ thể phạm vi thẩm quyền lần lượt của Bộ, Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh, UBND cấp huyện.

Cách quy định này là chưa hợp lý, có thể bỏ sót các trường hợp, ví dụ:

  • Thẩm quyền của Bộ đối với dự án từ 100 ha (điểm b khoản 1) phải loại trừ các trường hợp giao biển để nuôi trồng thủy sản trong phạm vi 3 hải lý của UBND cấp huyện
  • Thẩm quyền của UBND cấp tỉnh đối với phần khu vực biển nuôi trồng thủy sản ngoài 03 hải lý (điểm b khoản 2) phải loại trừ trường hợp giao biển nuôi trồng thủy sản quá 06 hải lý…

Do đó, để bảo đảm tính chuẩn xác trong xác định thẩm quyền giao khu vực biển, tránh bỏ sót các trường hợp, đề nghị Ban soạn thảo không quy định theo hướng liệt kê các trường hợp thuộc thẩm quyền theo trật tự từ Bộ đến huyện mà quy định theo hướng ngược lại (từ huyện tới Bộ), tương tự cách quy định của Luật Thủy sản, để đảm bảo loại trừ chính xác, ví dụ:

  • UBND cấp huyện có thẩm quyền đối với trường hợp đáp ứng đủ 02 điều kiện (i) khu vực biển trong vòng 03 hải lý hoàn toàn thuộc phạm vi quản lý của huyện; và (ii) mục tiêu nuôi trồng thủy sản (chú ý là theo Luật thủy sản thì dự án thuộc thẩm quyền huyện này không bị giới hạn về diện tích);
  • UBND cấp tỉnh có thẩm quyền đối với các trường hợp đáp ứng đủ 03 điều kiện (i) khu vực biển trong vòng 03-06 hải lý, hoặc trong vòng 03 hải lý nhưng phạm vi hai huyện trở lên; (ii) dưới 100 ha; và (iii) không thuộc thẩm quyền của UBND huyện
  • Bộ Tài nguyên môi trường: Tất cả các trường hợp còn lại (tất cả các trường hợp không thuộc thẩm quyền của UBND huyện, tỉnh)
  1. Về hồ sơ đề nghị giao, công nhận, trả lại khu vực biển; gia hạn, sửa đổi, bổ sung quyết định giao khu vực biển (Điều 15)
  • “Quyết định phê duyệt quy hoạch”

Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 15 Dự thảo thì trong Hồ sơ đề nghị giao khu vực biển phải có “Bản sao có chứng thực quyết định phê duyệt quy hoạch và trích lục phạm vi khu vực biển đề nghị giao…”.

Việc yêu cầu phải cung cấp tài liệu này là chưa hợp lý, bởi đây chính là các văn bản của cơ quan nhà nước (các quy hoạch là văn bản của Nhà nước, được cấp có thẩm quyền phê duyệt). Cá nhân, tổ chức đề nghị cấp phép chỉ cần cung cấp các thông tin về khu vực biển mà họ đề nghị giao, cơ quan cấp phép có thể dựa vào quy hoạch đã được phê duyệt để xem xét khu vực biển đề nghị giao có phù hợp với quy hoạch hay không.

Để đảm bảo tinh thần cải cách thủ tục hành chính, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại điểm g khoản 1 Điều 15 Dự thảo.

Góp ý tương tự, đề nghị bỏ các điểm d khoản 3, điểm c khoản 5, điểm đ khoản 6 Điều 15 Dự thảo.

  • “Phương án sản xuất kinh doanh”

Điểm b khoản 2 Điều 15 quy định, trong hồ sơ đề nghị giao khu vực biển của cá nhân Việt Nam để nuôi trồng thủy sản, phải có “phương án sản xuất kinh doanh”.

Yêu cầu cung cấp tài liệu này tại thời điểm cấp phép là chưa phù hợp bởi phương án sản xuất kinh doanh có thể thay đổi liên tục tùy thuộc vào nhiều yếu tố, thậm chí có thể thay đổi ngay sau thời điểm cấp phép. Vì vậy, các thông tin trong phương án sản xuất kinh doanh tại thời điểm cấp phép là ít ý nghĩa. Mặt khác, cơ quan nhà nước cũng không thể yêu cầu mỗi khi thay đổi phương án sản xuất kinh doanh, các cá nhân lại phải cung cấp lại, vì sẽ gia tăng rất lớn về thủ tục hành chính.

Hơn nữa, dưới góc độ minh bạch, không rõ cơ quan cấp phép sẽ xem xét nội dung gì ở phương án sản xuất kinh doanh? Và dựa vào tiêu chí nào để đánh giá và cấp phép.

Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo bỏ cụm từ “phương án sản xuất kinh doanh” tại điểm b khoản 2 Điều 15 Dự thảo.

  1. Trình tự thực hiện thủ tục giao, công nhận, trả lại khu vực biển; gia hạn, sửa đổi, bổ sung quyết định giao khu vực biển (Điều 19)

Khoản 2 Điều 19 Dự thảo quy định về thời hạn thẩm định hồ sơ tối đa cho các trường hợp. Tuy nhiên, thời hạn này sẽ không được tính trong “trường hợp cần thiết” có quan tiếp nhận hồ sơ lấy ý kiến các cơ quan có liên quan, kiểm tra thực địa.

Tuy nhiên, Dự thảo không quy định rõ:

  • “Trường hợp cần thiết” là những trường hợp nào? Quy định này khá chung chung có thể tạo ra sự tùy nghi cho cơ quan giải quyết thủ tục quyết định việc kiểm tra thực địa và/hoặc lấy ý kiến các cơ quan hữu quan, tạo ra sự kéo dài của quy trình giải quyết thủ tục.
  • Trong khoảng thời gian bao lâu kể từ khi nhận hồ sơ, cơ quan tiếp nhận hồ sơ sẽ lấy ý kiến bằng văn bản các cơ quan hữu quan?
  • Trong khoảng thời gian bao lâu kể từ ngày nhận hồ sơ/ý kiến các cơ quan hữu quan thì cơ quan tiếp nhận hồ sơ sẽ tiến hành kiểm tra thực địa?

Việc thiếu vắng các quy định trên khiến cho thời hạn cấp phép trở nên kéo dài và tổ chức, cá nhân xin phép không biết được thời gian mà mình có được giấy phép kể từ thời điểm nộp hồ sơ. Để đảm bảo tính minh bạch trong quy trình, thủ tục hành chính, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ những vấn đề trên.

  1. Một số góp ý khác
  • Về hình thức tiếp nhận, trả kết quả giải quyết hồ sơ (Điều 17)

Dự thảo quy định tổ chức, cá nhân có thể nộp hồ sơ qua dịch vụ công trực tuyến/đường bưu điện, trong khi đó nhận kết quả lại phải thực hiện trực tiếp tại cơ quan tiếp nhận hồ sơ. Điều này tạo ra sự chưa đồng bộ về trình tự thủ tục hành chính nhất là khi cho phép thủ tục được thực hiện qua nhiều phương thức. Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định về việc trả kết quả giải quyết hồ sơ theo hướng, có thể qua đường bưu điện.

  • Về thu hồi khu vực biển (Điều 20)

Theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 20 Dự thảo thì mặc dù “Giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển bị thu hồi hoặc sau 24 tháng kể từ ngày quyết định giao khu vực biển có hiệu lực mà tổ chức, cá nhân không thực hiện khai thác, sử dụng tài nguyên” vẫn có ngoại lệ là “trường hợp có lý do chính đáng được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận”.

Tuy nhiên, Dự thảo lại không có quy định những trường hợp nào được cho là có lý do chính đáng. Trình tự thủ tục để có được sự chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền? Để tạo thuận lợi khi triển khai trên thực tế, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các vấn đề trên.

  • Hoàn trả tiền trong trường hợp bị thu hồi khu vực biển (Điều 29)

Theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 29 Dự thảo thì tổ chức, cá nhân đã nộp tiền sử dụng khu vực biển cho toàn bộ thời gian được giao nhưng bị thu hồi khu vực biển thì số tiền sử dụng khu vực biển đã nộp cho thời gian chưa sử dụng “không được hoàn trả đối với trường hợp khu vực biển bị thu hồi theo quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 20 Nghị định này”.

Quy định này là chưa tạo ra sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư ở điểm, trường hợp các nhà đầu tư nộp tiền sử dụng khu vực biển theo hình thức trả tiền hàng năm, thì họ sẽ không phải mất đi số tiền tương ứng với số năm chưa sử dụng, tính từ thời điểm có quyết định thu hồi. Trong khi đó, đối với nhà đầu tư trả tiền cho toàn bộ thời gian được giao thì họ lại phải mất toàn bộ số tiền cho khoảng thời gian trên, khi cùng một lỗi vi phạm với nhà đầu tư nộp tiền hàng năm. Quy định này cũng không tạo động lực để cho các nhà đầu tư nộp tiền cho toàn bộ thời gian sử dụng.

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định về các trường hợp không được hoàn trả lại tiền đã nộp sử dụng khu vực biển (trường hợp quy định tại điểm a, b và c khoản 1 Điều 20 của Nghị định này).

  • Khoản 1 Điều 11 về công nhận khu vực biển trích dẫn không chính xác, khi Điều 11 không có khoản 3. Đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại về việc trích dẫn.
  • Về khung giá áp dụng và mức thu tiền sử dụng khu vực biển: VCCI đang tiến hành lấy ý kiến doanh nghiệp đối với quy định này và sẽ có ý kiến khi nhận phản hồi của doanh nghiệp.

Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.