Góp ý Dự thảo Quyết định phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025 của Bộ Công Thương

Thứ Tư 15:24 02-07-2025

Kính gửi: Hội đồng Tư vấn cải cách Thủ tục hành chính

Trả lời Công văn số 74/HĐTV của Hội đồng Tư vấn cải cách Thủ tục hành chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Quyết định phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025 của Bộ Công Thương (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến như sau:

  1. Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh rượu (Phần I)

Theo quy định tại Nghị định 105/2017/NĐ-CP, Nghị định 17/2020/NĐ-CP các hoạt động phân phối rượu, bán buôn rượu, bán lẻ rượu phải xin giấy phép kinh doanh. Các điều kiện kinh doanh đối với các hoạt động này gần như không có bất kì đặc thù nào của một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, có nghĩa là các điều kiện này không rõ kiểm soát yếu tố nào trong các yêu cầu quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Đầu tư 2020. Cụ thể:

– Điều kiện phân phối rượu gồm: i) là doanh nghiệp thành lập theo quy định của pháp luật; ii) có hệ thống phân phối rượu trên địa bàn từ 02 tỉnh trở lên, mỗi địa bàn tỉnh phải có 01 thương nhân bán buôn rượu hoặc thành lập chi nhánh hoặc địa điểm kinh doanh ngoài trụ sở chính; iii) có văn bản giới thiệu hoặc hợp đồng nguyên tắc của thương nhân sản xuất rượu, thương nhân phân phối rượu khác hoặc nhà cung cấp rượu ở nước ngoài.

Yêu cầu về điều kiện có hệ thống phân phối chỉ nhằm xác định hình thức kinh doanh là phân phối (phân phối là phải có hệ thống phân phối). Nhưng không rõ tại sao lại phải có trên địa bàn ít nhất là 02 tỉnh và mỗi tỉnh lại phải có ít nhất 01 thương nhân bán buôn. Thực tế, phân phối là hoạt động đưa sản phẩm ra thị trường. Thương nhân phân phối có thể bán cho thương nhân bán buôn, thương nhân bán lẻ, thương nhân bán rượu tại chỗ. Với tính chất này thì không cần thiết phải yêu cầu tổ chức theo hình thức phân phối cố định nào, hoạt động như thế nào tùy thuộc vào nhu cầu kinh doanh, yếu tố thị trường và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Việc Nhà nước can thiệp vào việc yêu cầu thương nhân phải tổ chức mô hình phân phối nào là không cần thiết.

Yêu cầu về có văn bản giới thiệu hoặc hợp đồng nguyên tắc của thương nhân sản xuất rượu, thương nhân phân phối rượu khác hoặc nhà cung cấp rượu khác – tức là yêu cầu phải cung cấp danh sách các thương nhân sẽ cung cấp hàng cho mình tại thời điểm xin giấy phép kinh doanh là chưa hợp lý. Nhất là trong bối cảnh thị trường thay đổi, các nhà cung cấp có thể thay đổi liên tục. Mỗi lần thay đổi nhà cung cấp, thương nhân phân phối lại phải thực hiện thủ tục xin điều chỉnh giấy phép sẽ tạo ra khối lượng thủ tục hành chính rất lớn. Dự thảo đề xuất bỏ điều kiện này là hoàn toàn phù hợp.

– Điều kiện bán buôn rượu gồm: i) là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật; ii) có hệ thống bán buôn rượu trên địa bàn tỉnh, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính với ít nhất 01 thương nhân bán lẻ rượu. Trường hợp doanh nghiệp có thành lập chi nhánh hoặc địa điểm kinh doanh ngoài trụ sở chính để kinh doanh rượu thì không cần có xác nhận của thương nhân bán lẻ rượu; iii) có văn bản giới thiệu hoặc hợp đồng nguyên tắc của thương nhân sản xuất rượu, thương nhân phân phối rượu hoặc thương nhân bán buôn rượu khác.

Các yếu tố về hệ thống phân phối và văn bản giới thiệu phân tích tương tự như trên.

– Điều kiện bán lẻ rượu gồm: i) là doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc hộ kinh doanh được thành lập theo quy định của pháp luật; ii) có quyền sử dụng hợp pháp địa điểm kinh doanh cố định, địa chỉ rõ ràng; iii) có văn bản giới thiệu hoặc hợp đồng nguyên tắc của thương nhân sản xuất rượu, thương nhân phân phối rượu hoặc thương nhân bán buôn rượu.

Yêu cầu về địa điểm kinh doanh cố định, địa chỉ rõ ràng dường như không có tính đặc thù đối với một ngành nghề kinh doanh có điều kiện mà như một ngành nghề kinh doanh thông thường.

Rượu là một loại thực phẩm, hiện tại đang được kiểm soát theo hướng: doanh nghiệp sản xuất rượu phải đảm bảo các điều kiện về an toàn thực phẩm, ghi nhãn hàng hóa đầy đủ theo quy định, phải công bố sản phẩm rượu … Đây là các cơ chế quản lý đối với các sản phẩm thực phẩm. Khi lưu thông trên thị trường, các sản phẩm này phải chứng minh đáp ứng yêu cầu về quản lý thực phẩm. Còn đối với chủ thể phân phối, mua bán rượu không cần thiết phải kiểm soát về điều kiện kinh doanh. Mặt khác, như phân tích ở trên, các điều kiện kinh doanh đối với thương nhân phân phối, bán buôn, bán lẻ rượu không nhằm hướng đến kiểm soát yếu tố ảnh hưởng đến lợi ích công cộng nào mà Nhà nước buộc phải kiểm soát đối với một ngành nghề kinh doanh có điều kiện.

Vì vậy, để đảm bảo tinh thần cắt giảm các giấy phép kinh doanh, đề nghị cân nhắc bỏ các giấy phép kinh doanh đối với thương nhân phân phối rượu, bán buôn rượu, bán lẻ rượu.

  1. Lĩnh vực kinh doanh thuốc lá (Phần V)

Thuốc lá là hàng hóa hạn chế kinh doanh, vì vậy các hoạt động sản xuất, kinh doanh đối với loại hàng hóa này đang được kiểm soát rất chặt chẽ. Nhằm hạn chế nguồn cung ra thị trường, tổng sản lượng thuốc lá tiêu thụ trong nước sẽ bị khống chế.

Tổng sản lượng sản xuất và nhập khẩu thuốc lá hàng năm của toàn ngành để tiêu thụ trong nước không được vượt quá hạn mức tổng sản lượng sản xuất của toàn ngành thuốc lá do Bộ Công Thương công bố. Doanh nghiệp sản xuất và nhập khẩu thuốc lá hàng năm để tiêu thụ trong nước không được vượt quá sản lượng ghi trong Giấy phép sản xuất sản phẩm thuốc lá. Và trên cơ sở kết quả kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất thuốc lá trong 03 năm và dự kiến kế hoạch sản xuất kinh doanh của 05 năm tiếp theo, Bộ Công Thương sẽ xem xét và công bố sản lượng được phép sản xuất và nhập khẩu của từng doanh nghiệp sản xuất thuốc lá trong giai đoạn 05 năm tiếp theo trong Giấy phép sản xuất sản phẩm thuốc lá của doanh nghiệp.

Không chỉ kiểm soát về tổng sản lượng được phép sản xuất và nhập khẩu, các hoạt động đầu tư máy móc thiết bị chuyên ngành thuốc lá, đổi mới thiết bị, công nghệ cũng bị kiểm soát bằng sự chấp thuận/cho phép của cơ quan quản lý, cụ thể:

– Đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ; đầu tư sản xuất thuốc lá xuất khẩu, gia công thuốc lá xuất khẩu doanh nghiệp phải thực hiện thủ tục để được chấp thuận chủ trương đầu tư của Bộ Công Thương. Nội dung đề nghị sẽ có “tên dự án, địa điểm, thông số kỹ thuật chủ yếu có liên quan, quy mô, sản lượng sản xuất, hiệu quả của dự án, phương án xử lý các máy móc thiết bị được thay thế (nếu đầu tư thay thế)”

– Không được đầu tư xây mới, đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao công suất của các cơ sở sản xuất sản phẩm thuốc lá để tiêu thụ trong nước vượt quá tổng năng lực sản xuất của toàn ngành thuốc lá được Bộ Công Thương xác định.

– Doanh nghiệp chỉ được nhượng bán máy móc thiết bị còn giá trị sử dụng cho các doanh nghiệp có Giấy phép sản xuất thuốc lá, Giấy phép chế biến nguyên liệu thuốc lá phù hợp lĩnh vực sản xuất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoặc xuất khẩu, tái xuất ra nước ngoài. Doanh nghiệp phải lập hồ sơ nhượng bán, xuất khẩu, tái xuất hoặc thanh lý máy móc, thiết bị cần thanh lý và văn bản đề nghị đến Bộ Công Thương và Bộ sẽ trả lời trong thời hạn 15 ngày.

Các doanh nghiệp cho rằng, quy định kiểm soát về việc đầu tư, đổi mới thiết bị công nghệ, sang nhượng máy móc thiết bị theo cơ chế phải có sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền như hiện nay là quá mức cần thiết và tác động đến hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoàn toàn đồng ý với chủ trương cần có sự kiểm soát chặt chẽ đối với sản xuất kinh doanh thuốc lá – một loại hàng hóa tác động đến sức khỏe của người tiêu dùng. Hiện nay, Nhà nước đã kiểm soát tổng số lượng sản phẩm thuốc lá tiêu thụ nội địa bằng tổng sản lượng cụ thể và các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá không được sản xuất vượt tổng sản lượng cho phép. Như vậy, với việc áp đặt hạn mức, Nhà nước đã kiểm soát được tổng số nguồn cung ra thị trường, do đó việc Nhà nước phải kiểm soát thêm về việc đầu tư trang thiết bị máy móc của dự án đầu tư của doanh nghiệp sản xuất thuốc lá, việc sang nhượng máy móc thiết bị – vốn dĩ là những hoạt động do nhà đầu tư quyết định, diễn ra thường xuyên, phụ thuộc vào năng lực và chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, dường như … quá mức cần thiết.

Một số doanh nghiệp đề nghị cân nhắc, bỏ các quy định doanh nghiệp phải xin chấp thuận từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các hoạt động đổi mới thiết bị, công nghệ; sang nhượng, thanh lý máy móc thiết bị sản xuất thuốc lá.

  1. Lĩnh vực kinh doanh khí (Phần IX)

Trong lĩnh vực kinh doanh khí, Dự thảo đã có nhiều đề xuất bãi bỏ các điều kiện kinh doanh và thành phần hồ sơ đề nghị cấp phép trong lĩnh vực này. Các đề xuất này sẽ khiến cho điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính thuận lợi hơn đáng kể. Điều này thể hiện tinh thần cải cách rất lớn của cơ quan chủ trì. Tuy nhiên, để thể hiện tinh thần tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đề nghị cân nhắc, xem xét một số vấn đề sau:

– Điều kiện kinh doanh và Giấy chứng nhận đủ điều kiện cửa hàng bán lẻ LPG chai

Theo quy định hiện hành cửa hàng bán lẻ LPG phải đáp ứng điều kiện kinh doanh và phải thực hiện thủ tục cấp giấy phép mới được phép kinh doanh. Hiện tại, Dự thảo đề xuất cắt giảm điều kiện “có hợp đồng tối thiểu 01 năm bán LPG chai với thương nhân có giấy chứng nhận đủ điều kiện còn hiệu lực theo quy định tại Nghị định này, trừ trường hợp cửa hàng trực thuộc của thương nhân”. Như vậy, với đề xuất này, điều kiện kinh doanh hiện tại của cửa hàng bán lẻ LPG chỉ còn: i) thương nhân được thành lập theo quy định của pháp luật; ii) đáp ứng các điều kiện về phòng cháy và chữa cháy theo quy định của pháp luật.

Cũng theo đề xuất tại Dự thảo, điều kiện về phòng cháy và chữa cháy đã được kiến nghị bỏ trong thành phần hồ sơ của các thủ tục như cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu khí. Mặt khác, theo quy định tại Nghị định 96/2016/NĐ-CP kinh doanh khí thuộc ngành nghề phải đáp ứng về điều kiện an ninh trật tự, trong đó cũng yêu cầu phải đáp ứng quy định về phòng cháy và chữa cháy. Quy định về phòng cháy và chữa cháy cũng có quy những quy định đối với những cơ sở kinh doanh khí. Do đó, quy định tại Nghị định về kinh doanh khí không cần thiết phải quy định về điều kiện về phòng cháy và chữa cháy mà áp dụng các quy định khác có liên quan.

Như vậy, có thể thấy hiện tại không còn điều kiện kinh doanh nào áp dụng đối với cửa hàng bán lẻ LPG chai và đề nghị xem xét bãi bỏ Giấy chứng nhận đủ điều kiện cửa hàng bán lẻ LPG chai.

– Giấy chứng nhận sản xuất, sửa chữa chai LPG

Theo quy định hiện hành doanh nghiệp sản xuất, sửa chữa chai LPG phải đáp ứng điều kiện kinh doanh và phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận sản xuất chai LPG.

Đối với hoạt động sản xuất chai LPG, yếu tố cần quản lý và kiểm soát là chất lượng, độ an toàn của chai LPG – vì đây là loại hàng hóa có nguy cơ gây mất an toàn cho người tiêu dùng trong quá trình sử dụng. Hiện tại, cơ chế quản lý đối với cơ sở chai LPG là trước khi lưu thông trên thị trường phải được kiểm định kỹ thuật an toàn lao động, chứng nhận hợp quy theo quy định của pháp luật, phải đáp ứng đầy đủ các quy định về an toàn tại Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và thực hiện kiểm định định kỳ theo quy định; có đầy đủ hồ sơ, nguồn gốc xuất xứ của nhà sản xuất (khoản 1 Điều 16 Nghị định 87/2018/NĐ-CP). Đây là các quy định đảm bảo kiểm soát sự an toàn, chất lượng của chai LPG. Như vậy, cần đánh giá lại tính cần thiết phải áp đặt điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp sản xuất, sửa chữa chai LPG, vì dù sản xuất bằng dây chuyền nào và kiểm soát bằng hệ thống chất lượng ra sao, thì sản phẩm trước khi lưu thông trên thị trường đều được kiểm soát chất lượng và độ an toàn. Nói cách khác, yếu tố rủi ro tác động đến lợi ích công cộng đã được kiểm soát thông qua cơ chế kiểm soát chất lượng sản phẩm hàng hóa.

Đề nghị cân nhắc bỏ điều kiện kinh doanh và Giấy chứng nhận đủ điều kiện đối với sản xuất chai LPG.

  1. Lĩnh vực xúc tiến thương mại (Phần XI)

– Về thủ tục liên quan đến khuyến mại

Theo quy định tại pháp luật hiện hành, thương nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trực tiếp thực hiện khuyến mại hoặc thực hiện khuyến mại thông qua các thương nhân phân phối (bán buôn, bán lẻ, đại lý, nhượng quyền thương mại và các thương nhân phân phối khác theo quy định của pháp luật) phải thực hiện thủ tục thông báo, đăng ký thực hiện khuyến mại với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Cụ thể:

+ Các thủ tục đưa hàng mẫu, cung ứng dịch vụ mẫu để khách hàng dùng thử không phải trả tiền; tặng hàng hóa, cung ứng dịch vụ không thu tiền; bán hàng, cung ứng dịch vụ với giá thấp hơn giá bán hàng, cung ứng dịch vụ trước đó, được áp udnjg trong thời gian khuyến mại đã thông báo (khuyến mại bằng hình thức giảm giá); bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu mua bàng, phiếu sử dụng dịch vụ; bán hàng, cung ứng dịch vụ có kèm theo phiếu dự thi cho khách hàng để chọn người trao thưởng theo thể lệ và giải thưởng đã công bố (hoặc các hình thức tổ chức thi và trao thưởng khác tương đương); tổ chức chương trình khách hàng thường xuyên, theo đó việc tặng thưởng cho khách hàng căn cứ trên số lượng hoặc trị giá mua hàng hóa, dịch vụ mà khách hàng thực hiện được thể hiện dưới hình thức thẻ khách hàng, phiếu ghi nhận sự mua hàng hóa, dịch vụ hoặc các hình thức khác phải thực hiện thủ tục thông báo tại Sở Công Thương tối thiểu trước 03 ngày làm việc trước khi thực hiện khuyến mại

+ Thủ tục bán hàng, cung ứng dịch vụ kèm theo việc tham dự các chương trình mang tính may rủi mà việc tham gia chương trình gắn liền với việc mua hàng hóa, dịch vụ và việc trúng thưởng dựa trên sự may mắn của người tham gia theo thể lệ và giải thưởng đã công bố (chương trình khuyến mại mang tính may rủi) phải thực hiện đăng ký hoạt động khuyến mại và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận trước khi thực hiện chương trình khuyến mại.

Khuyến mại là một trong những phương thức để thúc đẩy hoạt động bán hàng của doanh nghiệp, giới thiệu sản phẩm và là hoạt động diễn ra thường xuyên của doanh nghiệp. Việc yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện các thủ tục thông báo hoặc đăng ký (có tính chất như cấp phép), mặc dù thủ tục thông báo là đơn giản và chỉ giới hạn trong một số hình thức khuyến mại, nhưng cũng tạo ra một khối lượng lớn thủ tục mà doanh nghiệp phải thực hiện. Trong khi đó, cơ chế quản lý đối với hoạt động này là chưa rõ ràng, nhất là tiêu chí để cơ quan nhà nước chấp thuận đăng ký hay là từ chối. Điều này vừa chưa đảm bảo yếu tố minh bạch vừa không rõ mục tiêu quản lý mà lại tại tạo gánh nặng về chi phí tuân thủ và rủi ro pháp lý nếu như doanh nghiệp “quên” không thực hiện thủ tục.

Trong lĩnh vực xúc tiến thương mại, thời gian qua đã ghi nhận những chuyển biến tích cực trong cải cách nhằm đơn giản hóa thủ tục hành chính. Tuy nhiên, trong bối cảnh yêu cầu cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đang được thúc đẩy mạnh mẽ như hiện nay, đề nghị cân nhắc bỏ hoàn toàn các thủ tục liên quan đến khuyến mại và áp dụng cơ chế hậu kiểm đối với các hoạt động này.

– Về khống chế tỷ lệ khuyến mại

Theo quy định hiện hành, giá trị vật chất dùng để khuyến mại đang bị khống chế không được vượt quá 50% giá của đơn vị hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại đó trước thời gian khuyến mại; mức giảm giá tối đa đối với hàng hóa, dịch vụ được khuyến mại không được vượt quá 50% giá hàng hóa, dịch vụ đó ngay trước thời gian khuyến mại. Pháp luật có quy định một số ngoại lệ cho việc khuyến mại không áp dụng mức khống chế này.

Việc đặt ra giới hạn về tỷ lệ giá trị hàng hóa khuyến mại, mức giảm giá tối đa của hàng hóa khuyến mại là chưa hợp lý và can thiệp một cách bất hợp lý vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu có lo ngại về yếu tố tác động cạnh tranh của việc giảm giá hàng hóa quá mức thông qua hình thức khuyến mại thì có thể giải quyết bằng công cụ của pháp luật cạnh tranh. Để tạo tính tự chủ và thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đề nghị cân nhắc bỏ các giới hạn trên đối với các hình thức khuyến mại.

  1. Lĩnh vực thương mại điện tử (Phần XVIII)

Ban hành trong giai đoạn đầu phát triển thương mại điện tử, Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định khá nhiều thủ tục hành chính với phần lớn các hoạt động thương mại điện tử của các doanh nghiệp, cá nhân. Có thể suy đoán rằng nhà làm luật cần kiểm soát chặt chẽ các rủi ro, đặc biệt trong giai đoạn đầu khi chưa thể lường hết các tác động của hoạt động này. Qua hơn thập kỷ phát triển, thương mại điện tử đã và đang trở thành xu hướng tất yếu với sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh. Các biện pháp và phương thức kiểm tra, giám sát ngày càng hoàn thiện, đồng thời, kiến thức và kỹ năng của người tiêu dùng cũng tốt hơn trước rất nhiều. Do vậy, trong lĩnh vực thương mại điện tử cần nghiên cứu, xác định lại rủi ro của các hoạt động thương mại điện tử để cắt giảm thủ tục hành chính và đẩy mạnh sang hoạt động hậu kiểm.

– Thủ tục thông báo với website thương mại điện tử bán hàng

Website thương mại điện tử bán hàng là website do thương nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động kinh doanh của chính mình. Như vậy, về bản chất, đây chỉ là một kênh bán hàng mới (trên internet) bên cạnh kênh bán hàng truyền thống, không phải là một công việc kinh doanh mới. Trong khi đó, các thương nhân đã phải thực hiện các thủ tục đăng ký với Nhà nước trước khi bắt đầu kinh doanh (đăng ký kinh doanh, chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hoá). Việc thương nhân khi triển khai thêm một kênh bán hàng trên internet phải thực hiện thêm thủ tục thông báo vô hình chung tạo ra gánh nặng hành chính không cần thiết.

Trước đây, Nghị định 52/2013/NĐ-CP yêu cầu mọi website TMĐT bán hàng phải thực hiện thủ tục thông báo, dù chỉ có các tính năng đơn giản như giới thiệu sản phẩm. Sau đó, Nghị định 85/2021/NĐ-CP giảm phạm vi xuống các website TMĐT bán hàng có chức năng đặt hàng trực tuyến. Tuy nhiên, việc giảm phạm vi này không có quá nhiều ý nghĩa. Việc lập website TMĐT bán hàng trở nên vô cùng phổ biến trong thời đại kinh doanh số hiện nay. 44% doanh nghiệp sở hữu website, trong đó 42% website có tính năng đặt hàng trực tuyến, theo khảo sát được thực hiện bởi Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương[1]. Số lượng hồ sơ thực hiện thông báo cũng rất lớn, 105.103 hồ sơ thông báo năm 2023[2]. Hơn nữa, cho đến nay, cũng chưa hề có phản ánh tác động tiêu cực đến kinh tế – xã hội từ việc các doanh  nghiệp không đăng ký website TMĐT bán hàng. Như vậy, có thể thấy các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử không mang lại lợi ích quản lý nhà nước nào rõ ràng, thậm chí còn đang trở thành rào cản với thương nhân khi tận dụng cơ hội từ thương mại điện tử.

Do vậy, đề nghị bãi bỏ hoàn toàn thủ tục thông báo với các website thương mại điện tử bán hàng thay vì chỉ điều chỉnh phân cấp như đề xuất tại Dự thảo. Việc kiểm soát hoạt động của các trang này có thể thực hiện theo phương pháp hậu kiểm thay vì phương pháp tiền kiểm.

– Thủ tục cấp phép với sàn thương mại điện tử nhỏ

Hiện nay, quy định pháp luật yêu cầu tất cả các sàn thương mại điện tử, bất kể quy mô và hình thức hoạt động, đều phải thực hiện thủ tục cấp phép trước khi hoạt động. Phương thức quản lý đánh đồng như vậy là chưa hợp lý vì các lý do sau:

Một, việc này không phù hợp với các sàn TMĐT nhỏ, khiến các sàn này hoặc sàn mới phát hành thử nghiệm (startup) bị quản lý quá chặt. Lĩnh vực mạng xã hội, một lĩnh vực có tính chất và tác động tương tự, pháp luật cũng cho phép quản lý lỏng với các mạng xã hội nhỏ, cụ thể mạng xã hội có lượt truy cập thường xuyên thấp chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo, nếu đủ lớn mới cần thực hiện thủ tục cấp phép, theo Điều 24.6.a Nghị định 147/2024/NĐ-CP.

Hai, quy định này không phù hợp với tính chất hoạt động của một số sàn TMĐT. Các sàn này chỉ cho phép người bán đăng tải thông tin về sản phẩm. Việc giao dịch giữa các bên (giao kết, thanh toán, vận chuyển) đều thực hiện thông qua các phương thức khác (như điện thoại, chat…). Thực chất, các sàn TMĐT này chỉ như một kênh quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, có thể hình dung như một “biển rao vặt online”. Các bước quan trọng trong quá trình giao dịch đều không diễn ra trên sàn TMĐT. Vì thế, không có nhiều rủi ro trong mô hình hoạt động này.

Do vậy, đề nghị nghiên cứu cơ chế quản lý theo hướng giảm bớt các thủ tục đối với các sàn TMĐT nhỏ. Theo đó, các sàn TMĐT nhỏ hoặc các sàn TMĐT chỉ cung cấp tính năng giới thiệu, trưng bày sản phẩm chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo khi bắt đầu hoạt động, và sẽ thực hiện thủ tục cấp phép khi đã phát triển đến một ngưỡng nhất định.

  1. Lĩnh vực xăng dầu (Phần XIX)

– Điều kiện đối với đại lý bán lẻ xăng dầu

Đề nghị bỏ điều kiện về thời hạn thuê từ 05 năm trở lên. Việc quy định thời hạn của hợp đồng này không có nhiều ý nghĩa trên thực tế, vì các bên hoàn toàn có thể điều chỉnh hợp đồng sau khi được cấp phép. Quy định này được hiểu nhằm đảm bảo tính ổn định và xác định các thương nhân có quyền sử dụng đối với cảng, kho, cửa hàng. Tuy nhiên, việc xác định thời hạn của hợp đồng tùy thuộc hoàn toàn vào thỏa thuận của các bên và việc có duy trì được thời hạn này hay không tùy thuộc vào quá trình thực hiện hợp đồng của các bên. Vì đây là hợp đồng dân sự, do đó thỏa thuận thời hạn của hợp đồng không có gì đảm bảo chắc chắn là bên thuê sẽ được thuê đúng thời hạn đó, vì một trong hai bên có thể vi phạm thời hạn này và giải quyết tranh chấp bằng bồi thường, phạt vi phạm.

 Nhiều lĩnh vực khác khi quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, pháp luật yêu cầu doanh nghiệp phải có quyền sử dụng cơ sở vật chất và phải duy trì quyền sử dụng đó trong suốt thời gian kinh doanh. Đây là cách tiếp cận hợp lý, bảo đảm doanh nghiệp luôn có đủ năng lực để thực hiện các hoạt động kinh doanh an toàn. Do đó, đề nghị bãi bỏ quy định về thời hạn hợp đồng 5 năm.

Góp ý tương tự, đề nghị rà soát và bỏ các quy định về việc yêu cầu thời hạn tối thiểu của hợp đồng trong các quy định trong lĩnh vực xăng dầu.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với góp ý Dự thảo Quyết định phê duyệt Phương án cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh năm 2025 của Bộ Công Thương. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn

[1] Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương, Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2023, trang 58

[2] Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương, Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2023, trang 26