VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 21/2019/TT-BNNPTNT hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Chăn nuôi về thức ăn chăn nuôi
VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư quy định về hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư
Kính gửi: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Trả lời Công văn số 6271/BKHĐT-PC ngày 06/9/2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư quy định về hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã tiến thành lấy ý kiến cộng đồng kinh doanh và có một số góp ý như sau:
Giám định tư pháp liên quan đến việc xác định quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức (trong đó có cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh) khi họ là một bên tham gia vào vụ án hình sự, vụ việc dân sự hoặc vụ án hành chính. Giám định tư pháp là một hoạt động quan trọng, trong nhiều trường hợp có ý nghĩa quyết định, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của doanh nghiệp.
- Áp dụng quy chuẩn chuyên môn (Điều 13 Dự thảo)
Quy định: “quy chuẩn chuyên môn áp dụng đối với hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư là các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, tiêu chuẩn và các quy định pháp luật được áp dụng trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư”. Tuy nhiên, cần cân nhắc lại tính chính xác của định nghĩa này bởi:
- Luật giám định tư pháp 2012, sửa đổi năm 2020 không có định nghĩa rõ ràng quy chuẩn chuyên môn là gì. Trong khi đó, khoản 1 Điều 3 Luật Giám định tư pháp đã quy định nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp “Tuân thủ pháp luật, tuân theo quy chuẩn chuyên môn và quy trình giám định”. Như vậy, quy định pháp luật và quy chuẩn chuyên môn là hai nội dung tách biệt nhau. Hoạt động giám định tư pháp trong tất cả các lĩnh vực đương nhiên phải tuân thủ tất cả quy định pháp luật có liên quan. Do đó, quy định như tại Điều 4 Dự thảo là không chính xác và không cần thiết.
- Quy định pháp luật không nên coi là một dạng “quy chuẩn chuyên môn” bởi về cả khía cạnh lý luận và thực tiễn, rất khó để căn cứ vào quy định pháp luật của ngành, lĩnh vực để giám định. Nội dung giám định là những yếu tố thuộc về kỹ thuật, tính chất lý, hoá liên quan đến đặc tính, tình trạng… của đối tượng giám định (trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư là công trình, định mức…). Trong khi đó quy định pháp luật là các quy tắc xử sự chung[1] mà phần lớn trong đó là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể.
- Hơn nữa, giả sử các giám định viên vẫn buộc phải và có thể tìm thấy các căn cứ tại quy định pháp luật thì khả năng đưa tới các cách hiểu, áp dụng khác nhau là rất dễ xảy ra, bởi quy định của pháp luật mang tính áp dụng chung, trong khi giám định tư pháp lại cần được cụ thể và rất chi tiết theo từng vụ việc, chủ thể giám định.
Vì các lý do trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn lĩnh vực kế hoạch và đầu tư, theo hướng chỉ bao gồm quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật; trong trường hợp nội dung giám định không có tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật thì cân nhắc phương án cho phép căn cứ vào thực tiễn của ngành, lĩnh vực đó, có thể giới hạn ở địa điểm và thời gian nhất định (so sánh với sản phẩm, hàng hoá, chất liệu, vật liệu, chẩn đoán…tương tự). Đồng thời, đề nghị bổ sung vào Điều 15 Dự thảo đơn vị thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư có nhiệm vụ rà soát, lập danh mục các quy chuẩn chuyên môn đang được áp dụng và công khai trên cổng thông tin điện tử của Bộ, góp phần hệ thống hoá, cập nhật và tăng tính thống nhất trong việc áp dụng các căn cứ giám định (tương tự quy định tại Điều 12 Thông tư số 30/2016/TT-BCT ngày 13 tháng 12 năm 2016 của Bộ Công Thương quy định về giám định tư pháp trong lĩnh vực công thương).
2. Về thời hạn giám định tư pháp
Dự thảo quy định duy nhất “Điều 12.Thời hạn giám định tư pháp”, dẫn chiếu lại toàn bộ khoản 16 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp. Trong khi đó, Luật có giao nhiệm vụ như sau: “Bộ, cơ quan ngang bộ quản lý chuyên môn về lĩnh vực giám định tư pháp căn cứ vào thời hạn giám định tối đa và tính chất chuyên môn của lĩnh vực giám định quy định thời hạn giám định tư pháp cho từng loại việc cụ thể”. Như vậy có thể hiểu thời hạn giám định tư pháp của tất cả các loại việc trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư sẽ áp dụng toàn bộ quy định tại Luật Giám định tư pháp.
Tuy nhiên, điểm 2, Mục I Dự thảo Tờ trình (về một số nội dung cần sửa đổi, bổ sung để phù hợp với Luật bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp năm 2020 và phù hợp với thực tiễn áp dụng) lại nêu: “- Bổ sung nội dung về thời hạn giám định tư pháp theo quy định tại khoản 16 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp năm 2020”. Như vậy, Dự thảo hiện đang chưa thống nhất với Dự thảo Tờ trình, đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại và bổ sung các quy định cụ thể hơn về thời hạn, phù hợp với lĩnh vực của mình. Chẳng hạn như:
Khoản 5 Điều 26a Luật Giám định tư pháp quy định: “Trường hợp khi có vấn đề phát sinh hoặc có cơ sở xác định việc giám định không thể hoàn thành đúng thời hạn, cá nhân, tổ chức thực hiện việc giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho người trưng cầu giám định và thời gian sự kiến hoàn thành, ra kết luận giám định”. Quy định này dường như đã cho phép kéo dài thời gian giám định tới mức không thể xác định, không bị ràng buộc bởi các điều khoản khác bởi trên thực tế sẽ có rất nhiều lý do (cả khách quan và chủ quan) khiến cho việc giám định không thể hoàn thành đúng thời hạn. Nói cách khác, khoản 5 đã vô hiệu hoá các thời hạn đặt ra và cho phép cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tư pháp được tự đặt ra thời gian (dự kiến hoàn thành, ra kết luận giám định) với các lý do riêng của mình. Điều này sẽ có khả năng bị lạm dụng trên thực tế, gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức và làm giảm hiệu quả giải quyết các vụ án, vụ việc có yêu cầu giám định tư pháp.
Do đó, để bảo đảm Thông tư hướng dẫn được chi tiết, đầy đủ theo hướng hợp lý hơn, góp phần bảo vệ quyền của cá nhân, tổ chức yêu cầu giám định về mặt thời hạn giám định, đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn các trường hợp “có vấn đề phát sinh hoặc có cơ sở xác định việc giám định không thể hoàn thành đúng thời hạn” là các trường hợp nào. Có thể quy định theo hướng: làm rõ các trường hợp được kéo dài thời hạn giám định chỉ giới hạn ở các trường hợp bất khả kháng và phải được cấp có thẩm quyền chấp thuận trước khi thông báo tới người có yêu cầu giám định.
Trên đây là ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Thông tư quy định về hoạt động giám định tư pháp trong lĩnh vực kế hoạch và đầu tư. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
[1] Điều 3 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật