Phản ánh bất cập về chính sách tài chính với ngành công nghiệp khoáng sản

Thứ Ba 15:48 28-10-2025

Kính gửi:         Đồng chí Phạm Minh Chính, Uỷ viên Bộ Chính trị,
                     Thủ tướng Chính phủ Nước CHXHCN Việt Nam

Thời gian qua, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã có những bước cải thiện vượt bậc với những chính sách đột phá, thúc đẩy các ngành chiến lược, quan trọng.

Trong bối cảnh đó, ngành công nghiệp khai thác và chế biến sâu khoáng sản nổi lên như một ngành quan trọng với sự phát triển của các lĩnh vực mang tính chiến lược, quan trọng như an ninh quốc phòng, chip bán dẫn, năng lượng tái tạo, công nghiệp hàng không vũ trụ… Với lợi thế sở hữu nhiều loại khoáng sản quý hiếm với trữ lượng lớn, đứng từ thứ 3 – 6 thế giới, Việt Nam có thể phát triển ngành công nghiệp chế biến sâu khoáng sản không chỉ là một ngành kinh tế mà còn nâng cao an ninh quốc gia, tầm ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thực hiện chức năng là tổ chức quốc gia đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp, góp phần thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2022 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, VCCI đã tổ chức hội thảo với các lãnh đạo cao cấp của cơ quan, doanh nghiệp, hiệp hội, chuyên gia trong ngành. Từ đó, VCCI xin trân trọng báo cáo Thủ tướng về bất cập trong khung chính sách tài chính cho ngành và một số kiến nghị.

1. Bất cập trong chính sách tài chính với ngành công nghiệp khoáng sản

Hiện nay, doanh nghiệp khai khoáng phải thực hiện nhiều nghĩa vụ tài chính đồng thời áp dụng lên hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản:

Thứ nhất, sự trùng lặp giữa thuế tài nguyên và tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Hai nghĩa vụ này đều áp dụng trên cùng đối tượng là phần tài nguyên khoáng sản khai thác. Doanh nghiệp vừa phải nộp tiền “mua” quyền khai thác khoáng sản, vừa tiếp tục nộp thuế khi khai thác.

Thứ hai, chính sách về thuế xuất khẩu áp dụng chung mức thuế xuất khẩu cao, không phân biệt sản phẩm khoáng sản thô hoặc sản phẩm khoáng sản đã chế biến sâu thành các loại sản phẩm công nghiệp, khoáng chất công nghiệp. Chính sách về thuế giá trị gia tăng không hoàn thuế đối với nhiều sản phẩm khoáng sản chế biến sâu xuất khẩu.

Thứ ba, chính sách về thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng thuế suất cao 50% (so với thuế suất tiêu chuẩn 20%) đối với hoạt động khai thác một số tài nguyên quý hiếm.

Chính sách này đã có tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành, cụ thể:

Gánh nặng chi phí và giảm sức cạnh tranh: mức thu thuế suất kết hợp từ thuế tài nguyên (3–25%) và tiền cấp quyền (1–5%) là rất cao. Nếu tính tổng các nghĩa vụ tài chính với ngân sách (bao gồm cả thuế thu nhập doanh nghiệp, phí bảo vệ môi trường, ký quỹ, thuế xuất khẩu, thuế giá trị gia tăng…), tổng nghĩa vụ với ngân sách có thể lên đến 24-26% doanh thu từ ví dụ thực tế của một doanh nghiệp trong ngành. Gánh nặng này bào mòn lợi nhuận, thậm chí khiến nhiều doanh nghiệp chế biến khoáng sản thua lỗ, doanh nghiệp thiếu nguồn lực tái đầu tư công nghệ. 

Đồng thời, nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp Việt Nam còn cao hơn hẳn thông lệ quốc tế. Cụ thể, doanh nghiệp ở Indonesia, Malaysia, Úc hay Canada thường chỉ nộp khoảng 5–7% doanh thu dưới dạng royalty (thuế tài nguyên) và thuế thu nhập doanh nghiệp thông thường. Nhiều nước cũng không áp dụng thuế xuất khẩu với sản phẩm đã chế biến sâu, như Mỹ, Úc, Nhật.

Không khuyến khích doanh nghiệp chế biến sâu và khai thác khoáng sản nghèo: Các dự án này yêu cầu vốn đầu cao, cộng thêm thuế, phí cao càng làm dự án kém hiệu quả. Hơn nữa, càng khai thác nhiều càng chịu thuế cao, trong khi lợi nhuận biên thấp. Việc này khiến nhiều mỏ chỉ tập trung phần giàu, bỏ qua phần nghèo, hiệu suất thu hồi tài nguyên thấp.

Tác động đến đầu tư dài hạn: với tỷ lệ thuế phí cao, doanh nghiệp có thể chọn chiến lược “khai thác nhanh – rút nhanh”, tập trung lợi nhuận ngắn hạn rồi đóng cửa mỏ khi dễ khai thác cạn kiệt, thay vì đầu tư dài hạn.

Tác động đến việc thu hút đầu tư vào khai thác các nguồn khoáng sản chiến lược mới như đất hiếm. Dù có tiềm năng rất lớn, nhưng với chính sách tài chính như vậy thì rất khó thu hút các doanh nghiệp đầu tư khai thác và chế biến sâu nguồn tài nguyên chiến lược này.

2. Kiến nghị của VCCI

Để hiện thực hóa Nghị quyết 10-NQ/TW về phát triển ngành công nghiệp khoáng sản hiện đại, tiên tiến, VCCI kính đề nghị Thủ tướng Chính phủ quan tâm, chỉ đạo các Bộ, ngành nghiên cứu, cải cách tổng thể về chính sách tài chính cho ngành công nghiệp khoáng sản, cụ thể:

Hợp nhất hai nghĩa vụ về tiền cấp quyền và thuế tài nguyên thành một khoản “thuế khoáng sản” duy nhất, tính trực tiếp theo doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. Phí bảo vệ môi trường cũng cần tính dựa vào doanh thu bán hàng của doanh nghiệp. Cách tiếp cận này phù hợp với pháp luật về thuế, với thông lệ quốc tế, giảm rủi ro chồng chéo và tạo môi trường đầu tư ổn định. Nếu tiếp tục duy trì cả hai khoản thu, cần bổ sung cơ chế “trần tổng nghĩa vụ tài chính” để đảm bảo nguồn thu hợp lý cho ngân sách, đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư bài bản, tăng cường chế biến sâu.

Với thuế suất thuế tài nguyên, cho phép áp dụng thuế suất ở mức hợp lý với các loại khoáng sản đã qua chế biến sâu, gia tăng hàm lượng thành sản phẩm công nghiệp, khoáng chất công nghiệp hoặc vật liệu công nghiệp.

Điều chỉnh thuế xuất khẩu, hoàn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp chế biến sâu và thúc đẩy các ngành khoáng sản chiến lược, quan trọng.

   – Ưu đãi có điều kiện cho các dự án chế biến sâu hoặc mỏ khoáng sản nghèo, điều kiện khai thác khó khăn như miễn giảm tiền cấp quyền hoặc thuế tài nguyên để phù hợp với nhiệm vụ tại Nghị quyết 10-NQ/TW về điều chỉnh thuế suất nhằm khuyến khích công nghệ hiện đại trong khai khoáng.

VCCI tin tưởng rằng, với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Chính phủ, chính sách tài chính trong ngành khoáng sản sẽ sớm được hoàn thiện theo hướng minh bạch, hài hòa lợi ích của Nhà nước – doanh nghiệp – xã hội, góp phần phát triển một ngành công nghiệp khoáng sản hiện đại, bền vững và có sức cạnh tranh quốc tế.

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam xin trân trọng báo cáo và kính mong nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.

Xin trân trọng cảm ơn./.

Các văn bản liên quan