VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị quyết về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021 – 2025

Thứ Tư 11:39 13-10-2021

Kính gửi: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trả lời Công văn số 6290/BKHĐT-PTND của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề nghị góp ý Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021 – 2025 (sau đây gọi tắt là Dự thảo), trên cơ sở nghiên cứu Dự thảo và tổng hợp ý kiến từ cộng đồng doanh nghiệp, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến như sau:

  1. Về quan điểm, định hướng (Mục 1 Dự thảo)

Về cơ bản, các quan điểm, định hướng phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn 05 năm tới được nêu trong Dự thảo là rõ ràng, hợp lý. Các quan điểm, định hướng này đã xác định được những vấn đề cốt lõi để hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển (tiếp tục hướng tới cải cách thể chế, cải cách về môi trường kinh doanh;…), phù hợp với tình hình mới (hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và tăng trưởng, vượt qua khó khăn do dịch COVID-19,…) và xu hướng phát triển của nền kinh tế trong nước và quốc tế đang và sẽ diễn ra (thí điểm chính sách đối với các mô hình kinh doanh mới xuất hiện trong nền kinh tế; khuyến khích phát triển, ứng dụng các nền tảng công nghệ…). Tuy nhiên, để thể hiện quan điểm, định hướng toàn diện hơn, đề nghị Quý Cơ quan cân nhắc một số vấn đề sau:

  • Về xây dựng thể chế (điểm 2)

Dự thảo đưa ra quan điểm “đơn giản hóa khâu tiền kiểm, tăng cường hậu kiểm dựa trên tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng, minh bạch và hợp lý” là phù hợp, tạo ra cơ chế quản lý vừa đảm bảo mục tiêu quản lý của Nhà nước vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Thời gian qua, “nguyên tắc quản lý rủi ro” được áp dụng và đã cho thấy hiệu quả trong quản lý nhà nước. Vì vậy, đề nghị bổ sung thêm nguyên tắc này trong cơ chế quản lý thời gian tới, cụ thể như sau: “đơn giản hóa khâu tiền kiểm, tăng cường hậu kiểm theo nguyên tắc quản lý rủi ro dựa trên tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng, minh bạch và hợp lý”;

  • Về hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi và tăng trưởng (điểm 4)

Trong gần 2 năm qua, cộng đồng doanh nghiệp đã và đang chịu ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch COVID-19. Từ cuối tháng 9/2021 đến nay, tình hình dịch bệnh đã cơ bản được kiểm soát, các hoạt động kinh tế từng bước được khôi phục trở lại trong trạng thái bình thường mới. Hơn lúc nào hết, doanh nghiệp cần các chính sách hỗ trợ để phục hồi hoạt động. Điểm 4 Mục I Dự thảo đã đề cập đến quan điểm, định hướng “hỗ trợ các doanh nghiệp phục hồi và tăng trưởng”, song nội dung này vẫn chưa đủ rõ và thể hiện được tinh thần này. Do vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo sửa đổi nội dung tại điểm 4 Mục I cụ thể như sau: “Hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục và vượt qua các hệ quả của đại dịch COVID-19 để phục hồi sản xuất kinh doanh; tập trung cải thiện năng lực cạnh tranh, tận dụng các lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do, thúc đẩy chuyển đổi số, qua đó tạo đà tăng trưởng mới; …”.

  • Về các quan điểm, định hướng khác:

Cần hướng đến hai nhóm giải pháp lớn về phát triển xanh và bền vững, giảm phát thải Carbon, thích ứng với biến đổi khí hậu và nhóm giải pháp hình thành phát triển chuỗi giá trị hàng hóa trong sản xuất công nghiệp và nông nghiệp mà Việt Nam có thế mạnh. Vì đây sẽ là xu hướng chủ đạo của thế giới, nếu doanh nghiệp Việt Nam không được định hướng và hỗ trợ thì sẽ gặp bất lợi trong cạnh tranh với các nước khác trên thế giới.

Hơn nữa, bài học đứt gãy chuỗi cung ứng dẫn đến doanh nghiệp đứt gãy dòng tiền và mất thanh khoản, doanh nghiệp phải ngừng hoạt động vừa qua đã cho thấy rất rõ cần có chính sách, giải pháp mới phù hợp với tình hình mới của nền kinh tế toàn cầu cũng như Việt Nam, cần thích nghi và sống chung với Covid-19. Nhìn về dài hạn, doanh nghiệp Việt Nam cần nâng tầm quản trị hơn nữa theo xu hướng chung là có trách nhiệm với xã hội và môi trường và chính là điều kiện thu hút dòng vốn đầu tư đang chuyển dịch rất lớn hiện nay trên thế giới.

Dự thảo chưa thể hiện rõ về các vấn đề trên, do đó đề nghị Cơ quan soạn thảo nghiên cứu bổ sung vào Dự thảo.

  1. Về mục tiêu (Mục II Dự thảo)
  • Mục tiêu số doanh nghiệp đăng ký thành lập (điểm 2.a)

Dự thảo đặt ra chỉ tiêu “Lũy kế đến năm 2025 có hơn 2,1 triệu doanh nghiệp đăng ký thành lập, trong đó có khoảng 710 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giai đoạn 2021-2025”. Việc đặt ra chỉ tiêu về số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập mới cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh của nước ta thuận lợi, nhất là về các thủ tục gia nhập thị trường. Tuy nhiên, số doanh nghiệp đang hoạt động có thể phản ánh sát hơn về “sức khỏe” của nền kinh tế, mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy và tạo điều kiện để các chủ thể kinh doanh có thể hoạt động. Hơn nữa, Đại hội Đảng lần thứ XIII cũng đã đặt ra mục tiêu đến năm 2025 có 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động. Vì vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo bổ sung thêm chỉ tiêu về số lượng doanh nghiệp hoạt động trong giai đoạn 2021 – 2025.

  • Số lượng doanh nghiệp được hỗ trợ chuyển đổi số

Điểm 2.đ đặt ra chỉ tiêu “100.000 doanh nghiệp được hỗ trợ chuyển đổi số” trong giai đoạn 2021-2025. Số lượng doanh nghiệp được hỗ trợ theo Dự thảo là khá nhỏ, chỉ chiếm gần 10% tổng số doanh nghiệp tính đến hết năm 2020, đó là còn chưa tính đến các đối tượng là hợp tác xã, các hộ kinh doanh. Nếu tính ra số lượng từng năm cho mỗi địa phương trong 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì con số thực hiện hàng năm còn nhỏ hơn nữa. Mặt khác, Dự thảo chưa nêu rõ các mức độ hỗ trợ như thế nào? Do vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo nâng chỉ tiêu về số lượng doanh nghiệp được hỗ trợ chuyển đổi số và nêu rõ các mức độ hỗ trợ.

  • Ngoài ra, đề nghị Cơ quan soạn thảo bổ sung các chỉ tiêu lượng hóa liên quan tới:

+ Tỷ lệ các doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu

+ Tỷ lệ các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu

+ Tỷ lệ tận dụng các ưu đãi thuế quan theo các FTA

+ Tỷ lệ tăng trưởng xuất nhập khẩu

  1. Về các nhiệm vụ và giải pháp (Mục III dự thảo)

3.1. Nhiệm vụ cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh (điểm 1)

  • Điểm 1.a Dự thảo đưa ra giải pháp cho các bộ, ngành, địa phương “tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp và chính quyền địa phương nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp …”. Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách một cách hiệu quả hơn, đề nghị Cơ quan soạn thảo bổ sung thêm “đối thoại với các bộ, ngành trung ương”;
  • Điểm 1.a Dự thảo đã đề ra nhiệm vụ và giải pháp về xử lý đối với các cá nhân, tổ chức, cán bộ công chức gây nhũng nhiễu khi thực thi công vụ. Để đảm bảo sự đồng bộ, đề nghị Cơ quan soạn thảo bổ sung thêm nội dung về có cơ chế giám sát thực thi và tiếp nhận phản ánh của doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để phát hiện và xử lý các cán bộ công chức không thực hiện đúng chức trách của mình;
  • Đề nghị Cơ quan soạn thảo bổ sung nội dung “phối hợp chặt chẽ với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp, và hiệp hội ngành nghề” đối với điểm 2.d, cụ thể như sau: “Tham mưu và chủ động đẩy mạnh hoạt động của các Tổ công tác đặc biệt của Thủ tướng Chính phủ về tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong bối cảnh Covid-19 và Tổ công tác về rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy thực hiện dự án đầu tư trong nửa đầu nhiệm kỳ 2021 – 2025; phối hợp chặt chẽ với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp, và hiệp hội ngành nghề kịp thời đánh giá, đề xuất hình thành các thể chế hoặc tổ chức chuyên biệt thực hiện chức năng hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau đại dịch, tìm kiếm và thúc đẩy cơ hội đầu tư mới tại Việt Nam.”
  • Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong đơn giản hóa thủ tục đăng ký kinh doanh, áp dụng hệ thống đăng ký trực tuyến thống nhất thông qua cơ chế một cửa và cổng thông tin quốc gia.
  • Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Xây dựng: phối hợp cùng Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng và ban hành các TCVN và các quy chuẩn về Đô thị thông minh để đẩy mạnh phát triển đô thị thông minh, thực hiện Đề án 950 của Chính phủ về phát triển đô thị thông minh.
  • Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông trong việc hỗ trợ thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan quản lý nhà nước tạo môi trường thuận lợi và thủ tục nhanh chóng, thuận tiện cho các doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính.
  • Đề nghị bổ sung thêm nội dung về trách nhiệm của các bộ, ngành về chia sẻ thông tin về các chính sách, quy định liên quan đến doanh nghiệp trong nước và nước ngoài để VCCI và các hiệp hội ngành hàng phổ biến cho doanh nghiệp.
  • Dự thảo chưa thể hiện rõ nội dung về giải pháp để thúc đẩy đạt được mục tiêu về số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập. Một trong những giải pháp quan trọng để phát triển doanh nghiệp (cả về số lượng và chất lượng) là việc nâng cấp, phát triển doanh nghiệp từ các hộ kinh doanh. Với hơn 05 triệu hộ kinh doanh, đây vẫn là nguồn lực quan trọng để phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, Dự thảo vẫn chưa có giải pháp nào liên quan đến đến các chủ thể này. Vì vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo bổ sung các giải pháp để thúc đẩy khởi nghiệp, gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh; cần có giải pháp để khuyến khích, thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi lên thành doanh nghiệp; đồng thời có các chính sách, chương trình hỗ trợ đối với các nhóm doanh nghiệp mới thành lập, để các doanh nghiệp này có thể trụ vững và duy trì hoạt động trên thị trường.

3.2. Nhiệm vụ “ Kích cầu nội địa, thúc đẩy mở rộng thị trường trong nước và quốc tế” (Điểm 2)

  • Về các nhiệm vụ của Bộ Công Thương, đề nghị bổ sung một số nội dung sau:

– Đối với hoạt động kích cầu, mở rộng thị trường nội địa, đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ “hỗ trợ thiết lập các kênh phân phối ổn định, thông suốt, tin cậy đặc biệt đối với các sản phẩm nông sản

– Đối với hoạt động thúc đẩy mở rộng thị trường quốc tế: đề nghị bổ sung thêm các nhiệm vụ sau:

+ Tổ chức các chiến dịch xúc tiến thương hiệu quốc gia chung, các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia theo từng nhóm sản phẩm nổi bật (dịch vụ, nông sản, đồ gỗ, thực phẩm…)

+ Thông qua các thương vụ, các trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài để tiết lập các kênh thông tin, kết nối và hỗ trợ cho doanh nghiệp khi kinh doanh với thị trường nước ngoài, tận dụng các cơ hội từ các FTA để xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ

– Đối với hoạt động “tăng cường đào tạo, tư vấn, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp để tận dụng lợi thế của các hiệp định thương mại tự do”. Đây là các hoạt động nên giao cho hiệp hội doanh nghiệp thay vì cơ quan quản lý nhà nước thực hiện. Cần thống nhất quan điểm, những dịch vụ nào tư nhân làm tốt thì Nhà nước không nên làm.

– Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ: Rà soát khung khổ pháp lý cho việc phát triển thương mại nội địa trên trên môi trường điện tử, hạn chế các hành vi gian lận thương mại, xây dựng các chế tài nhằm thúc đẩy phát triển thương mại nội địa và thương mại điện tử.

– Đối với hoạt động “hỗ trợ xây dựng các sàn giao dịch điện tử hoạt động dưới hình thức phi thương mại (cơ quan vận hành không thu phí của doanh nghiệp trên sàn giao dịch) nhằm tăng cường, tiêu thụ các sản phẩm trong nước và mở rộng thị trường xuất khẩu”. Nội dung này chưa đủ rõ ở điểm: chủ thể nào sẽ xây dựng các sàn giao dịch điện tử hoạt động dưới hình thức phi thương mại (cơ quan quản lý nhà nước hay là các hiệp hội, tổ chức được nhà nước ủy quyền, …)? Cách thức hỗ trợ là gì? Xác định rõ các vấn đề này sẽ đánh giá được tính khả thi của nhiệm vụ giải pháp này.

  • Về các nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đề nghị bổ sung một số nội dung sau:

– Thúc đẩy, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế đối với nông sản Việt Nam (phối hợp với Bộ Công Thương)

– Tăng cường các hoạt động đàm phán, thỏa thuận với các đối tác thị trường tiềm năng để các nước này mở cửa thêm cho các loại nông sản Việt Nam

– Thiết lập thêm các cơ sở, trung tâm kiểm nghiệm, xử lý SPS, TBT đối với các loại nông thủy sản xuất khẩu, giảm các chi phí liên quan tới việc kiểm nghiệm, xử lý này.

  • Về nhiệm vụ của các bộ, ngành, địa phương:

Điểm 2.c Mục III đề xuất nội dung “các Bộ, ngành, địa phương tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia thực hiện các hợp đồng mua sắm công theo quy định của pháp luật đấu thầu về ưu đãi cho các gói thầu quy mô nhỏ” và “Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia thực hiện các hợp đồng mua sắm công …”. Những nội dung này là chưa rõ (không rõ tạo điều kiện thuận lợi như thế nào?), vì vậy rất khó để triển khai trên thực tế nhiệm vụ này. Đề nghị đề xuất nội dung này theo hướng rõ ràng hơn.

  • Về VCCI, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề

Khác với các nhiệm vụ có tính chính sách khác, trong các nhiệm vụ liên quan tới kích cầu, mở rộng thị trường trong nước, quốc tế, việc triển khai cần có sự chủ động, phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và hiệu quả của cộng đồng doanh nghiệp thông qua VCCI và các hiệp hội. Đồng thời, trong một số trường hợp nhất định, khi sự tham gia của Nhà nước là không thích hợp với thông lệ và quy tắc quốc tế (ví dụ trong ứng phó với các biện pháp phòng vệ…), hành động chủ động của doanh nghiệp là cần thiết. Vì vậy đề nghị bổ sung thêm nhóm Nhiệm vụ đối với các chủ thể này, cụ thể như sau:

“d) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề:

– Chủ động triển khai, phối hợp cùng các Bộ ngành, địa phương triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, thúc đẩy tiêu dùng nội địa ở tầm quốc gia, khu vực, ngành hàng; tổ chức, hỗ trợ để doanh nghiệp tham gia vào chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các chương trình bình ổn giá, giảm giá, kích cầu tiêu dùng theo từng ngành hàng, từng thời điểm…;

– Tích cực tham gia vào các cơ chế song phương và đa phương quan trọng trong khu vực và trên thế giới, các Bộ, ban ngành, tổ chức xúc tiến Trung ương và địa phương tăng cường thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư thiết thực, đoàn khảo sát thị trường, các dự án, chương trình xúc tiến hiệu quả giúp tăng cường chia sẻ thông tin, trao đổi kinh nghiệm và cơ hội hợp tác góp phần nâng cao năng lực hội nhập của Việt nam với thế giới và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam;

– Phân tích, đánh giá nhu cầu, xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ về thông tin, đào tạo năng lực, tư vấn… cho doanh nghiệp trong quá trình sử dụng các cam kết ưu đãi trong các hiệp định thương mại tự do, tận dụng các lợi thế từ các hiệp định này để có được nguồn cung nhập khẩu giá tốt, thu hút các đơn hàng quốc tế quay trở lại Việt Nam, và có vị thế tốt hơn trong cạnh tranh với các đối thủ ở thị trường nước ngoài;

– Thông tin, tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp đối phó hiệu quả với các rào cản thương mại quốc tế phát sinh, đặc biệt là các vụ kiện phòng vệ thương mại, các biện pháp bảo hộ thương mại trá hình ở các thị trường xuất khẩu, nhất là ở các thị trường trọng điểm, các thị trường tiềm năng mới/đang khai phá, có xu hướng bảo hộ cao”;

Nghiên cứu, đưa ra các khuyến nghị liên quan đến các đàm phán hiệp định FTAs với các Bộ, ngành liên quan và các hoạt động chuyên môn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.

  • Đề nghị bổ sung cụ thể trong nhóm giải pháp hình thành các chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị hàng hóa chủ yếu của Việt Nam cần nghiên cứu ban hành chính sách về hình thành cho vay theo chuỗi giá trị nông sản chủ yếu của Việt Nam (Lúa gạo, Cà phê, Hạt tiêu, Rau quả, Tôm, Cá tra) nhằm hạn chế tình trạng “được mùa mất giá; được giá mất mùa”. Bên cạnh đó hình thành sàn giao dịch hàng hóa lớn theo hợp đồng kỳ hạn và hợp đồng thương lai, giúp nông dân và nhà sản xuất giảm thiểu rủi ro giá cả thị trường.

3.3. Nhiệm vụ “Hỗ trợ tăng cường tiếp cận tài chính” (điểm 3 Mục III)

  • Điểm 3.a Dự thảo đưa ra giải pháp “Bộ Tài chính rà soát và sửa đổi Nghị định 34/2018/NĐ-CP của Chính phủ nhằm đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng tăng tỷ lệ được bảo lãnh cho mỗi khoản vay, giảm hoặc miễn chi phí bảo lãnh, đơn giản hóa thủ tục bảo lãnh, kéo dài thời gian bảo lãnh, mở rộng phạm vi, đối tượng bảo lãnh tín dụng”. Đề nghị sửa đổi thành “hoạt động bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa theo hướng tăng quy mô vốn của quỹ bảo lãnh, tăng tỷ lệ được bảo lãnh tín chấp của mỗi khoản vay … bảo lãnh tín dụng”, vì nếu vẫn giữ nguyên như quy định tại Nghị định 34/2018/NĐ-CP thì doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ ít có cơ hội được bảo lãnh vì quỹ này có quy mô vốn nhỏ, vẫn đòi hỏi có tài sản bảo đảm trong khi nếu doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có tài sản thì họ hoàn toàn có thể vay từ ngân hàng, tiết giảm phí bảo lãnh.
  • Đề nghị bổ sung thêm các nội dung:

+ Tiếp tục hỗ trợ giảm, miễn, gia hạn về một số loại thuế, phí, tiền thuê đất cho các doanh nghiệp trong một số ngành bị tác động nặng nền bởi Covid-19. Vì, đây là các biện pháp có tác dụng hiệu quả hỗ trợ về mặt tài chính cho doanh nghiệp;

+ Để hỗ trợ doanh nghiệp duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, đề nghị Ngân hàng Nhà nước có những chính sách hỗ trợ mạnh hơn như nâng hạn mức tài sản thế chấp để tăng giá trị vốn vay lưu động từ 70% lên mức cao hơn, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận Quỹ bảo lãnh tín dụng và Quỹ hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa;

3.4. Nhiệm vụ “Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo” (điểm 4 Mục III)

  • Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông (điểm 4.d)

Về triển khai Chương trình thương hiệu Việt cho sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam: đề nghị bổ sung nội dung: “Phối hợp Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Bộ Công thương triển khai Chương trình thương hiệu Việt cho sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam chinh phục người Việt Nam để nâng cao sức ảnh hưởng và năng lực cạnh tranh của các thương hiệu công nghệ số quốc gia. Xây dựng văn hóa thói quen tiêu dùng sản phẩm số Make in Việt Nam của tổ chức, doanh nghiệp, người dân” để phù hợp với Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/01/2020[1].

  • Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Khoa học và Công nghệ: Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao năng lực thực hiện của hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ thực thi quyền sở hữu trí tuệ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo;
  • Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

3.5. Nhiệm vụ “Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho doanh nghiệp” (điểm 5 Mục III)

            Đề nghị sửa đổi, bổ sung thêm các nhiệm vụ, giải pháp của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội như sau (phần in nghiêng là nội dung đề nghị bổ sung):

  • Đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp theo hướng tăng thực hành; rà soát, sửa đổi và bổ sung chương trình dạy nghề phù hợp với tình hình mới; nâng cao chương trình nội dung giảng dạy sát với thực tiễn của doanh nghiệp và cải thiện chất lượng đào tạo nghề và kỹ năng để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cung cấp thông tin và mở rộng chuyên môn hóa theo ngành nghề ở bậc trung học phổ thông để giúp định hướng nghề nghiệp sớm cho học sinh.
  • Xây dựng Đề án “Đào tạo lại, đào tạo thường xuyên cho lực lượng lao động” nhằm nâng cao trình độ, kĩ năng, tay nghề và trình độ ngoại ngữ của người lao động để đáp ứng những thay đổi căn bản về hình thái lao động, việc làm đã thay đổi do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid 19 để tạo khả năng thích ứng, linh hoạt của người lao động Việt Nam trong những năm tiếp theo, đồng thời tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng nghề cho doanh nghiệp, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý I năm 2022.
  • Nghiên cứu, xây dựng chính sách ưu đãi, thu hút nguồn lao động chất lượng cao trong nước.
  • Đẩy mạnh công tác truyền thông nâng cao vai trò của doanh nghiệp trong việc dẫn dắt các cơ sở giáo dục nghề nghiệp triển khai các chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu của thị trường lao động.

3.6. Nhiệm vụ “Hỗ trợ phục hồi, khuyến khích phát triển doanh nghiệp” (điểm 7 Mục III)

Điểm 7.đ Dự thảo đưa ra giải pháp “Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu trình cấp có thẩm quyền gói tín dụng cho vay ưu đãi với lãi suất ưu đãi dưới hình thức tái cấp vốn lãi suất 0% cho doanh nghiệp trong các ngành du lịch, hàng không, giáo dục trong thời hạn 6 tháng đến 1 năm”. Đề nghị bổ sung thêm ngành “vận tải đường bộ” bởi vì đây là một trong những ngành chịu thiệt hại nặng nề bởi dịch bệnh Covid-19.

  1. Về tổ chức thực hiện (Mục IV)
  • Điểm 1.a Dự thảo yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan nganh Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải “xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết này, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ”. Đề nghị bổ sung thời hạn phải hoàn thành công việc này để thuận lợi khi thực hiện và căn cứ để giám sát việc hoàn thành của các cơ quan được giao nhiệm vụ.
  • Đề nghị bổ sung nhiệm vụ của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề như sau:

+ Tăng cường đối thoại và kết nối giữa VCCI với các hiệp hội doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, hiệp hội ngành hàng và Bộ ban ngành Trung ương, địa phương để đưa ra các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp đồng bộ, hiệu quả;

+ Tập hợp, kiến nghị sửa đổi các chính sách, quy định bất cập, vướng mắc tác động tiêu cực đến môi trường đầu tư, kinh doanh;

+ Phối hợp với Bộ Thông tin Truyền thông, Bộ Công thương triển khai Chương trình thương hiệu Việt cho sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam chinh phục người Việt Nam để nâng cao sức ảnh hưởng và năng lực cạnh tranh của các thương hiệu công nghệ số quốc gia. Xây dựng văn hóa thói quen tiêu dùng sản phẩm số Make in Việt Nam của tổ chức, doanh nghiệp, người dân; 

+ Phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thông tin Truyền thông và các Bộ ngành liên quan trong việc xây dựng và triển khai thực hiện các Chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp;

+ Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan liên quan trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, chương trình nâng cao năng lực các hiệp hội doanh nghiệp

Trên đây là một số ý kiến của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2021 – 2025. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

[1] Theo Chỉ thị số: 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/01/2020 có giao Bộ Thông tin Truyền thông phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Bộ Công thương thực hiện giải pháp số 12 tại mục I của Chỉ thị: “Tuyên dương các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam tiêu biểu thực hiện tốt chiến lược “Make in Viet Nam” và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá thương mại, thúc đẩy tiêu dùng trong nước và hỗ trợ xuất khẩu cho các sản phẩm, dịch vụ, giải pháp và mô hình kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam”.