VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 38/2021/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo (phần về điện ảnh)
VCCI_Góp ý Dự thảo Đề nghị xây dựng Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp
VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025
Kính gửi:
– Văn phòng Chính phủ
– Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Thực hiện yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc của Thủ tướng Chính phủ với doanh nghiệp ngày 11/8/2022 và căn cứ Công văn số 5946/BKHĐT-PTDN của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 23/8/2022 về việc góp ý Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025 (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến đóng góp như sau:
- Về quan điểm, định hướng (Mục I Dự thảo)
VCCI nhất trí với việc cần phải có Nghị quyết riêng về phát triển doanh nghiệp cho cả nhiệm kỳ, điều này thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đối với sự nghiệp phát triển doanh nghiệp và phát triển kinh tế của đất nước.
Nghị quyết hướng đến mục tiêu năm 2025 là một điểm mốc cực kỳ quan trọng, chỉ còn cách mục tiêu năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình cao có 5 năm và cách mục tiêu năm 2045 gia nhập nhóm các quốc gia phát triển là 20 năm (theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XII). Chính vì vậy, là một nghị quyết Chính phủ về phát triển doanh nghiệp cả nhiệm kỳ, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển doanh nghiệp cần bám sát và hướng đến tạo nền tảng thực hiện các mục tiêu quan trọng này trong các nhiệm kỳ tiếp theo.
Về mục tiêu chung: Nghị quyết cần hướng tới các mục tiêu lớn như hỗ trợ doanh nghiệp thích ứng, phục hồi và phát triển bền vững, đồng thời góp phần xây dựng nền tảng để hiện thực hoá mục tiêu phát triển đất nước theo Nghị quyêt Đại hội Đảng lần thứ 13 là: đến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 là quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Nghị quyết nên có thêm mục tiêu khơi dậy tinh thần và khí thế mới trong hoạt động kinh doanh, đồng thời xây dựng đạo đức doanh nhân, văn hoá kinh doanh theo định hướng của Đảng, tương xứng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
Về các mục tiêu cụ thể: trong Dự thảo hiện nay có nhiều điểm chưa rõ, nên cân nhắc hoàn thiện, bổ sung theo hướng đề ra các chỉ tiêu mang tính tiêu chí tương ứng với mục tiêu phát triển của đất nước vào năm 2025, hướng tới 2030 và 2045.
Cụ thể xin góp ý như sau:
- Mục tiêu: “Khu vực doanh nghiệp đóng góp khoảng 65-70% GDP cả nước, khoảng 30-35% tổng việc làm trong nền kinh tế, 98-99% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu” chưa làm rõ được tỷ trọng, vai trò của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước như thế nào so với các doanh nghiệp FDI, trong khi doanh nghiệp trong nước mới là động lực bền vững lâu dài, rường cột cho sự phát triển của quốc gia…
- Mục tiêu: “Khoảng 35-40% tổng số doanh nghiệp có hoạt động ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”, “100% cơ sở kinh doanh bao gồm doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh được nâng cao nhận thức về chuyển đổi số” rất khó định lượng và đánh giá kết quả đạt được….
- Dự thảo đặt ra chỉ tiêu “Đạt 1,5 triệu doanh nghiệp”. Mục tiêu này là chưa rõ số doanh nghiệp này là “đăng ký thành lập” hay là “đang hoạt động”. Xác định số doanh nghiệp đang hoạt động có thể phản ánh sát hơn về “sức khỏe” của nền kinh tế, mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy và tạo điều kiện để các chủ thể kinh doanh có thể hoạt động. Hơn nữa, Nghị quyết 10 cũng đã đặt ra mục tiêu đến năm 2025 có 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động. Vì vậy, đề nghị quy định rõ về mục tiêu này theo hướng: đạt 1,5 triệu doanh nghiệp đang hoạt động.
- Điểm 2.d đặt ra chỉ tiêu “30.000 cơ sở kinh doanh được hỗ trợ chuyển đổi số”. Số lượng doanh nghiệp được hỗ trợ theo Dự thảo là quá nhỏ. Nếu con số mục tiêu 1,5 triệu doanh nghiệp hoạt động đạt được, cộng với số hợp tác xã và hộ kinh doanh, thì chỉ tiêu này chiếm một tỉ lệ rất thấp. Nếu tính ra số lượng từng năm cho mỗi địa phương trong 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thì con số thực hiện hàng năm còn nhỏ hơn nữa. Mặt khác, Dự thảo cũng không nêu rõ mức độ chuyển đổi số như thế nào. Do vậy, đề nghị nâng chỉ tiêu về số lượng doanh nghiệp được hỗ trợ chuyển đổi số và làm rõ mức độ chuyển đổi số.
VCCI đề nghị cân nhắc sử dụng một số mục tiêu cụ thể hơn, ví dụ như:
i. Phát triển doanh nghiệp tư nhân trong nước: Doanh nghiệp tư nhân đăng ký chính thức theo Luật Doanh nghiệp đến năm 2025 có đóng góp 15% GDP, năm 2030 có đóng góp 20% của GDP (hiện tại mới đóng góp khoảng 9% GDP). Có ít nhất 10 tập đoàn tư nhân trong nước quy mô lớn trong lĩnh vực công nghiệp và 10 tập đoàn tư nhân trong nước quy mô lớn trong lĩnh vực dịch vụ.
ii. Thúc đẩy chuyển đổi hộ kinh doanh cá thể thành doanh nghiệp: Đến 2025 chuyển đổi ít nhất 10% số hộ kinh doanh có đăng ký chính thức sang thành doanh nghiệp hoạt động theo Luật Doanh nghiệp.
iii. Doanh nghiệp phát triển theo hướng phát triển bền vững: Đến 2025 có ít nhất 20% số doanh nghiệp sản xuất được vận hành theo cơ chế kinh tế tuần hoàn.
iv. Tăng cường tỷ lệ nội địa hoá, năng lực tự chủ tự cường, tự lập, nâng cao tính kết nối của doanh nghiệp tư nhân trong tham gia chuỗi sản xuất: Tỷ lệ nội địa hoá các ngành tăng thêm 10% tới 2025.
v. Tăng cường chất lượng nhân lực: Đến năm 2025, tỷ lệ lao động có kỹ năng tăng 10 bậc so với hiện tại theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế Thế giới WEF (hiện Việt Nam xếp hạng 93/141 quốc gia); tỷ lệ lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 35%.
vi. Phát triển kinh tế số: doanh thu từ kinh doanh số của các doanh nghiệp tăng trung bình ít nhất 10% mỗi năm. Số lượng doanh nghiệp có chứng nhận doanh nghiệp khoa học công nghệ tăng trung bình 10% mỗi năm.
vii.Đẩy mạnh khai thác ưu đãi của các hiệp định FTA: Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu sử dụng ưu đãi thuế quan theo các FTA đạt 40-45%. (Hiện nay, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu sử dụng ưu đãi thuế quan trung bình theo các FTA của Việt Nam khá khiêm tốn, năm vừa qua chỉ đạt 32.7%. Cần hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng ưu đãi thuế quan, bởi đây là khía cạnh lợi ích dễ hiện thực hóa nhất của các FTA từ góc độ doanh nghiệp).
- Về xây dựng thể chế (điểm 3)
Dự thảo đưa ra quan điểm “đơn giản hóa khâu tiền kiểm, tăng cường hậu kiểm dựa trên tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng, minh bạch và hợp lý” là phù hợp, tạo ra cơ chế quản lý vừa đảm bảo mục tiêu quản lý của Nhà nước vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Thời gian qua, “nguyên tắc quản lý rủi ro” được áp dụng trong một số lĩnh vực như thuế, hải quan…, đã góp phần đáng kể nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đồng thời giảm bớt gáng nặng chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp. Vì vậy, đề nghị bổ sung thêm nguyên tắc này trong cơ chế quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực thời gian tới, cụ thể như sau: “đơn giản hóa khâu tiền kiểm, tăng cường hậu kiểm theo nguyên tắc quản lý rủi ro dựa trên tiêu chuẩn, tiêu chí rõ ràng, minh bạch và hợp lý”;
- Về các nhiệm vụ và giải pháp (Mục III dự thảo)
2.1. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp cần triển khai ngay (Mục A)
- Về nhóm giải pháp “tiếp tục hỗ trợ giảm chi phí cho doanh nghiệp, tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, nguồn lực hỗ trợ của nhà nước” (điểm 2).
Theo phản ánh của doanh nghiệp, việc tiếp cận khoản vay với lãi suất ưu đãi 2% theo quy định tại Nghị định 31/2022/NĐ-CP là khá khó khăn. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa trên thực tế gần như không tiếp cận được. Trong khi đây là chính sách hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sau đại dịch, doanh nghiệp rất mong chờ và kỳ vọng có thể tiếp cận được vốn tín dụng. Đề nghị bổ sung nhiệm vụ cho Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nghiên cứu để sửa đổi quy định về điều kiện tiếp cận vốn vay với lãi suất ưu đãi 2% này để chính sách thực sự đến được với doanh nghiệp.
Đối với Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa:
+ Cần có cơ chế tăng quy mô vốn cho Quỹ ngoài việc tiếp nhận và quản lý nguồn vay từ ngân sách, thiết lập các chế độ phù hợp để kêu gọi các nguồn tài trợ, viện trợ, đóng góp, ủy thác từ các tổ chức, cá nhân…
+ Tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận vay vốn của Quỹ dễ dàng hơn như điều kiện yêu cầu tài sản thế chấp, hạn mức vay, lãi suất… Vấn đề các doanh nghiệp đang gặp phải là thiếu tài sản thế chấp nên Quỹ cần có cơ chế hỗ trợ phù hợp để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
- Về nhóm giải pháp “Khắc phục đứt gãy chuỗi cung ứng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng thị trường trong nước” (điểm 3)
- Về các nhiệm vụ của Bộ Công Thương, đề nghị bổ sung một số nội dung:
+ Đối với hoạt động kích cầu, mở rộng thị trường nội địa, đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ “hỗ trợ thiết lập các kênh phân phối ổn định, thông suốt, tin cậy đặc biệt đối với các sản phẩm nông sản”
+ Đối với hoạt động thúc đẩy mở rộng thị trường quốc tế: đề nghị bổ sung thêm các nhiệm vụ sau: i) Tổ chức các chiến dịch xúc tiến thương hiệu quốc gia chung, các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia theo từng nhóm sản phẩm nổi bật (dịch vụ, nông sản, đồ gỗ, thực phẩm…); ii) Thông qua các thương vụ, các trung tâm xúc tiến thương mại Việt Nam ở nước ngoài để thiết lập các kênh thông tin, kết nối và hỗ trợ cho doanh nghiệp khi kinh doanh với thị trường nước ngoài, tận dụng các cơ hội từ các FTA để xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ.
+ Kịp thời xử lý các vướng mắc nhằm giảm bớt, tiến tới khắc phục các bất cập trong hoạt động logistics xuất khẩu, đặc biệt đối với nông sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long và biên giới với Trung Quốc.
+ Triển khai thí điểm cơ chế tự chứng nhận xuất xứ theo các FTA, đặc biệt là các FTA thế hệ mới, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng ưu đãi thuế quan theo các Hiệp định này.
- Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn như sau:
+ Theo dõi chặt chẽ các yêu cầu, điều kiện, thủ tục xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc, thông tin và hướng dẫn kịp thời cho nhà sản xuất, xuất khẩu nông sản;
+ Thúc đẩy, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế đối với nông sản Việt Nam (phối hợp với Bộ Công Thương)
+ Tăng cường các hoạt động đàm phán, thỏa thuận với các đối tác thị trường tiềm năng để các nước này mở cửa thêm cho các loại nông sản Việt Nam
+ Thiết lập thêm các cơ sở, trung tâm kiểm nghiệm, xử lý SPS, TBT đối với các loại nông thủy sản xuất khẩu, giảm các chi phí liên quan tới việc kiểm nghiệm, xử lý này.
2.2. Nhóm nhiệm vụ, giải pháp trong trung và dài hạn (Mục B)
- Nhóm giải pháp “hoàn thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách thực chất thủ tục hành chính” (điểm 5)
+ Tại điểm 5.a Dự thảo xác định các bộ, ngành, địa phương “tập trung giải quyết các bất cập do quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa cụ thể, chồng chéo, mâu thuẫn trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng và tài nguyên, môi trường”. Đây là những lĩnh vực tác động rất lớn đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, Dự thảo xác định tập trung vào giải quyết các vấn đề trong lĩnh vực này là hợp lý. Tuy nhiên, trên thực tế, các vấn đề như thiếu minh bạch, thiếu thống nhất, chưa hợp lý trong các quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật không chỉ ở trong các lĩnh vực đất đai, xây dựng, đầu tư, tài nguyên và môi trường mà còn có ở các lĩnh vực khác, gây khó khăn, bất cập cho hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể khắc phục một cách toàn diện những điểm vướng gây khó cho doanh nghiệp trong trung và dài hạn, rất cần thiết phải xem xét chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật trong toàn bộ hệ thống pháp luật kinh doanh.
Đề nghị sửa đổi nội dung này theo hướng “Giải quyết các bất cập do quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật còn chưa cụ thể, chồng chéo, mâu thuẫn trong toàn bộ hệ thống pháp luật về kinh doanh, với trọng tâm trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng và tài nguyên, môi trường”.
+ Cũng tại điểm 5.a, đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của các Bộ, ngành, chính quyền các địa phương thúc đẩy chuyển đổi số trong các cơ quan quản lý nhà nước tạo môi trường thuận lợi và thủ tục nhanh chóng, thuận tiện cho các doanh nghiệp khi thực hiện các thủ tục hành chính.
+ Điểm 5.a Dự thảo đã yêu cầu các bộ, ngành, địa phương “tổ chức đối thoại định kỳ giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương và doanh nghiệp nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp và đánh giá thực chất quá trình xử lý kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp.” Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng, từng được xác định trong Nghị quyết 35/NQ-CP năm 2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và trên thực tế đã được nhiều bộ, ngành và địa phương triển khai tương đối tốt. Để việc triển khai các hoạt động đối thoại doanh nghiệp được hiệu quả và thực chất, cần đảm bảo các cuộc đối thoại doanh nghiệp có sự tham gia của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa. Đồng thời với đó, cần kịp thời công khai kết quả đánh giá quá trình xử lý kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp.
Vì vậy, đề nghị sửa đổi nội dung này theo hướng: “Tổ chức đối thoại định kỳ giữa các bộ, ngành, chính quyền địa phương và doanh nghiệp, đảm bảo sự tham gia của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa, nhằm tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp và đánh giá thực chất và công khai kết quả đánh giá quá trình xử lý kiến nghị của cộng đồng doanh nghiệp ”.
+ Tại điểm 5.b Dự thảo đặt ra nhiệm vụ cho Bộ Tài chính “nâng cao các điều kiện về nhà đầu tư chứng khoán cá nhân chuyên nghiệp, các tổ chức kiểm toán, định giá tài sản”. Nội dung này được hiểu điều kiện kinh doanh của tổ chức kiểm toán, định giá tài sản sẽ được nâng lên. Điều này dường như chưa phù hợp với chính nội dung tại điểm 5.a “không xây dựng, ban hành các thủ tục, rào cản mới cho hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, trừ trường hợp cần thiết và phải đánh giá tác động”.
Để đảm bảo tính thống nhất trong các giải pháp về chính sách, đề nghị bổ sung vào nội dung tại điểm 5.b “nâng cao các điều kiện về nhà đầu tư chứng khoán cá nhân chuyên nghiệp, các tổ chức kiểm toán, định giá tài sản sau khi đánh giá kỹ càng về các tác động”.
+ Tại điểm 5.c đề nghị cân nhắc bổ sung nhiệm vụ của Bộ Công Thương “Xây dựng và triển khai các đề án mở rộng thị trường sang các nước khu vực châu Phi, Mỹ Latin” và “Nghiên cứu xây dựng và triển khai đề án phát triển sản xuất, xuất khẩu các sản phẩm Halah”.
+ Dự thảo chưa thể hiện rõ nội dung về giải pháp để thúc đẩy đạt được mục tiêu về số lượng doanh nghiệp đăng ký thành lập. Một trong những giải pháp quan trọng để phát triển doanh nghiệp (cả về số lượng và chất lượng) là việc nâng cấp, phát triển doanh nghiệp từ các hộ kinh doanh. Với hơn 5 triệu hộ kinh doanh, đây vẫn là nguồn lực quan trọng để phát triển doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian tới. Tuy nhiên, Dự thảo vẫn chưa có giải pháp nào liên quan đến đến các chủ thể này. Vì vậy, đề nghị bổ sung các giải pháp để thúc đẩy khởi nghiệp, gia nhập thị trường của các chủ thể kinh doanh; cần có giải pháp để khuyến khích, thúc đẩy hộ kinh doanh chuyển đổi lên thành doanh nghiệp; đồng thời có các chính sách, chương trình hỗ trợ đối với các nhóm doanh nghiệp mới thành lập, để các doanh nghiệp này có thể trụ vững và duy trì hoạt động trên thị trường.
- Nhóm giải pháp “Thúc đẩy chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp” (điểm 6)
+ Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Xây dựng: phối hợp cùng Bộ Khoa học và Công nghệ (Bộ KH&CN), Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng và ban hành các TCVN và các quy chuẩn về Đô thị thông minh để đẩy mạnh phát triển đô thị thông minh, thực hiện Đề án 950 của Chính phủ về phát triển đô thị thông minh.
+ Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Thông tin và Truyền thông: “Phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Bộ Công Thương triển khai Chương trình thương hiệu Việt cho sản phẩm công nghệ số Make in Việt Nam chinh phục người Việt Nam để nâng cao sức ảnh hưởng và năng lực cạnh tranh của các thương hiệu công nghệ số quốc gia. Xây dựng văn hóa thói quen tiêu dùng sản phẩm số Make in Việt Nam của tổ chức, doanh nghiệp, người dân” để phù hợp với Chỉ thị 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/01/2020[1].
+ Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ KH&CN: Tăng cường bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao năng lực thực hiện của hệ thống bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ thực thi quyền sở hữu trí tuệ để thúc đẩy đổi mới sáng tạo;
+ Đề nghị bổ sung thêm nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông xây dựng kho tri thức mở về chuyển đổi số để phổ cập miễn phí cho doanh nghiệp. Dữ liệu là nguồn tài nguyên hết sức quan trọng đối với doanh nghiệp. Do đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần phối hợp cùng các bộ ngành địa phương thực hiện việc công bố dữ liệu mở và cung cấp miễn phí dữ liệu mở về thì trường, ngành hàng, quy hoạch, kế hoạch phát triển, các dự án đầu tư công, … cho các cơ sở sản xuất kinh doanh nghiệp tiếp cận và khai thác sử dụng.
- Về nhiệm vụ của VCCI và các hiệp hội doanh nghiệp
Đây là nghị quyết quan trọng của Chính phủ về phát triển doanh nghiệp, vì vậy đề nghị xem xét bổ sung giao một số nhiệm vụ cụ thể cho VCCI để phát huy vai trò của VCCI là tổ chức chính trị – xã hội – nghề nghiệp đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam, đồng thời phù hợp với các nhiệm vụ của VCCI được giao tại Nghị quyết 09-NQ/TW ngày 9/12/2011 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế (đó là: “tập hợp, phản ánh ý kiến, nguyện vọng của đội ngũ doanh nhân; tham mưu cho Đảng, Nhà nước về các chính sách kinh tế – xã hội; xây dựng đạo đức, văn hoá kinh doanh, thúc đẩy phát triển doanh nghiệp, doanh nhân; hỗ trợ doanh nghiệp, doanh nhân hội nhập kinh tế quốc tế” và “Tăng cường hợp tác, tham vấn, đối thoại giữa Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước; tạo điều kiện cho các doanh nhân, hiệp hội doanh nghiệp tham gia vào việc xây dựng, triển khai các quy hoạch phát triển ngành hàng, kinh tế vùng và địa phương”).
Đề xuất xem xét giao VCCI một số nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Tích cực tổ chức các hoạt động tham vấn góp ý chính sách pháp luật. Tập hợp và phản ánh ý kiến của doanh nghiệp, phản ánh và báo cáo kịp thời cho Chính phủ và các cơ quan nhà nước có liên quan.
- Đẩy mạnh hoạt động định hướng, vận động xây dựng đạo đức doanh nhân, văn hoá kinh doanh trong cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp Việt Nam.
- Tăng cường kết nối doanh nghiệp, các hiệp hội doanh nghiệp tham gia xây dựng và triển khai các quy hoạch, các liên kết kinh tế vùng và địa phương.
Ngoài ra, với các nhiệm vụ liên quan tới kích cầu, mở rộng thị trường trong nước, quốc tế, việc triển khai cần có sự chủ động, phối hợp chặt chẽ, thường xuyên và hiệu quả của cộng đồng doanh nghiệp thông qua VCCI và các hiệp hội. Trong một số trường hợp nhất định, sự tham gia của Nhà nước là không thích hợp với thông lệ và quy tắc quốc tế (ví dụ trong ứng phó với các biện pháp phòng vệ…). Vì vậy đề nghị bổ sung thêm nhóm với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và các hiệp hội doanh nghiệp, cụ thể như sau:
“d) Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề:
- Chủ động triển khai, phối hợp cùng các Bộ ngành, địa phương triển khai các chương trình xúc tiến thương mại, thúc đẩy tiêu dùng nội địa ở tầm quốc gia, khu vực, ngành hàng; tổ chức, hỗ trợ để doanh nghiệp tham gia vào chương trình “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”, các chương trình bình ổn giá, giảm giá, kích cầu tiêu dùng theo từng ngành hàng, từng thời điểm…;
- Tích cực tham gia vào các cơ chế song phương và đa phương quan trọng trong khu vực và trên thế giới, các Bộ, ban ngành, tổ chức xúc tiến Trung ương và địa phương tăng cường thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư thiết thực, đoàn khảo sát thị trường, các dự án, chương trình xúc tiến hiệu quả giúp tăng cường chia sẻ thông tin, trao đổi kinh nghiệm và cơ hội hợp tác góp phần nâng cao năng lực hội nhập của Việt nam với thế giới và thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá nhu cầu, xây dựng và triển khai các chương trình hỗ trợ về thông tin, đào tạo năng lực, tư vấn… cho doanh nghiệp trong quá trình sử dụng các cam kết ưu đãi trong các hiệp định thương mại tự do, tận dụng các lợi thế từ các hiệp định này để có được nguồn cung nhập khẩu giá tốt, thu hút các đơn hàng quốc tế quay trở lại Việt Nam, và có vị thế tốt hơn trong cạnh tranh với các đối thủ ở thị trường nước ngoài;
- Thông tin, tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp đối phó hiệu quả với các rào cản thương mại quốc tế phát sinh, đặc biệt là các vụ kiện phòng vệ thương mại, các biện pháp bảo hộ thương mại trá hình ở các thị trường xuất khẩu, nhất là ở các thị trường trọng điểm, các thị trường tiềm năng mới/đang khai phá, có xu hướng bảo hộ cao”.
Trên đây là một số ý kiến của VCCI đối với Dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về một số chính sách, giải pháp trọng tâm hỗ trợ doanh nghiệp chủ động thích ứng, phục hồi nhanh và phát triển bền vững đến năm 2025. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc khi chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo.
Xin trân trọng cảm ơn!
[1] Theo Chỉ thị số: 01/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 14/01/2020 có giao Bộ Thông tin Truyền thông phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Bộ Công Thương thực hiện giải pháp số 12 tại mục I của Chỉ thị: “Tuyên dương các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam tiêu biểu thực hiện tốt chiến lược “Make in Viet Nam” và tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, quảng bá thương mại, thúc đẩy tiêu dùng trong nước và hỗ trợ xuất khẩu cho các sản phẩm, dịch vụ, giải pháp và mô hình kinh doanh của doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam”.