VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư quy định về kiểm định thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện và Dự thảo Thông tư ban hành Danh mục thiết bị viễn thông, đài vô tuyến điện bắt buộc kiểm định
VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định xử phạt hành chính thuế, hóa đơn
Kính gửi: Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính
Trả lời Công văn số 15406/BTC-TCT của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở góp ý của doanh nghiệp, có một số ý kiến ban đầu như sau:
- Về hình thức xử phạt bổ sung (Điều 5)
Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 5 Dự thảo thì “đình chỉ hoạt động từ 01 tháng đến 03 tháng” là một trong các hình thức xử phạt bổ sung.
Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại quy định này để đảm bảo tính thống nhất với các văn bản pháp luật có liên quan. Bởi vì, theo quy định tại pháp luật về doanh nghiệp và các văn bản pháp luật chuyên ngành (quy định về điều kiện kinh doanh, giấy phép) thì vi phạm hành chính về thuế không thuộc các trường hợp doanh nghiệp bị đình chỉ hoạt động có thời hạn.
- Về xử phạt hành vi khai sai, khai không đầy đủ các nội dung trong hồ sơ thuế (Điều 10)
Khoản 1 Điều 10 Dự thảo quy định phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi “ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trong hồ sơ thuế nhưng không liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế”.
Khoản 4 Điều 10 Dự thảo quy định phạt tiền từ 8.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng đối với hành vi “kê khai không trung thực nội dung hồ sơ đăng ký thuế, hồ sơ thay đổi thông tin đăng ký thuế”.
“Hồ sơ đăng ký thuế” là “hồ sơ thuế” (khoản 9 Điều 3 Luật Quản lý thuế). “Hành vi ghi thiếu, ghi sai các chỉ tiêu trong hồ sơ thuế” có thể trùng với hành vi “kê khai không trung thực nội dung hồ sơ đăng ký thuế”. Như vậy, hành vi quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 10 có sự chồng lấn và có thể được xử phạt hai khung phạt tiền khác nhau cho một hành vi.
Để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại hai quy định này để tránh chồng lấn (có thể loại trừ quy định khoản 4 Điều 10 trong quy định tại khoản 1 Điều 10).
- Về xử phạt hành vi vi phạm về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế (Điều 11)
Điều 11 Dự thảo quy định về số ngày quá hạn nộp hồ sơ khai thuế để xác định hành vi vi phạm và khung phạt tiền. Tuy nhiên, Dự thảo không quy định rõ thời điểm là căn cứ xác định thời gian quá hạn (ví dụ: “phạt cảnh cáo đối với hành vi nộp hồ sơ khai thuế quá thời hạn từ 01 ngày đến 05 ngày”, vậy “từ 01 ngày đến 05 ngày” tính từ thời điểm nào? Ngày cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế hay ngày gia hạn cuối cùng của thời hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định?). Để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về thời điểm căn cứ để xác định thời gian quá hạn.
- Về xử phạt hành vi vi phạm quy định về chấp hành quyết định kiểm tra, thanh tra thuế, cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế (Điều 13)
Điểm c khoản 1 Điều 13 Dự thảo xử phạt hành vi “từ chối, trì hoãn việc cung cấp hồ sơ, tài liệu, hóa đơn, chứng từ, sổ kế toán liên quan đến nghĩa vụ thuế quá thời hạn 06 giờ làm việc, kể từ khi nhận được yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền trong thời gian kiểm tra, thanh tra tại trụ sở người nộp thuế mà không có lý do chính đáng” trong khung phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Điểm a khoản 2 Điều 13 Dự thảo xử phạt hành vi “không cung cấp số liệu, tài liệu, sổ kế toán liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế khi được cơ quan có thẩm quyền yêu cầu trong thời gian kiểm tra, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế” trong khung phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
Hành vi “từ chối việc cung cấp hồ sơ, tài liệu, hóa đơn, chứng từ, sổ kế toán” cũng được xem là “không cung cấp số liệu, tài liệu, sổ kế toán”. Điểm a khoản 2 Điều 13 Dự thảo quy định cho cả hành vi thực hiện trong và ngoài thời hạn cơ quan nhà nước yêu cầu. Như vậy, hành vi vi phạm quy định tại điểm c khoản 1 và điểm a khoản 2 trên là chồng lấn và sẽ xảy ra hiện tượng, một hành vi có thể sẽ bị xử phạt theo hai khung phạt tiền khác nhau. Để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo loại trừ trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 trong quy định tại điểm a khoản 2 Điều 13 Dự thảo.
- Về xử phạt hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn (Điều 14)
Điểm d khoản 1 Điều 14 Dự thảo xử phạt đối với hành vi “sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được hoàn, số tiền thuế được miễn, giảm nhưng khi cơ quan thuế thanh tra, kiểm tra phát hiện, người mua chứng minh được lỗi vi phạm sử dụng hóa đơn không hợp pháp thuộc về bên bán và người mua đã hạch toán kế toán đầy đủ theo quy định”. Theo quy định này, người mua không có lỗi mà thuộc về người bán.
Trong trường hợp này, Dự thảo quy định xử phạt đối với người mua dường như chưa hợp lý và phù hợp với tính chất của vi phạm hành chính về thuế quy định tại khoản 1 Điều 2 Dự thảo “vi phạm hành chính về thuế là hành vi có lỗi của người nộp thuế”. Đề nghị Ban soạn thảo không xử phạt người nộp thuế trong trường hợp này.
- Về xử phạt các hành vi vi phạm hành chính về hóa đơn (Chương III)
Hiện nay đang có ba Nghị định điều chỉnh về hóa đơn: Nghị định 51/2010/NĐ-CP, Nghị định 04/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Nghị định 119/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng, cung cấp dịch vụ. Từ ngày 01/11/2020, sẽ chỉ còn lại Nghị định 119, hai Nghị định 51 và Nghị định 04 sẽ hết hiệu lực, có nghĩa kể từ thời điểm này sẽ chỉ có hóa đơn điện tử.
Như vậy, các quy định xử phạt vi phạm hành chính liên quan đến hóa đơn giấy hay các quy định tại Nghị định 51, Nghị định 04 sẽ không còn phù hợp kể từ 01/11/2020, ví dụ: xử phạt hành vi vi phạm quy định về đặt in hóa đơn (Điều 19); xử phạt hành vi vi phạm quy định về in hóa đơn đặt in (Điều 20).
Để đảm bảo tinh minh bạch và thống nhất, đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại toàn bộ Chương III Dự thảo và quy định thời hạn có hiệu lực của các quy định xử phạt đối với hành vi vi phạm liên quan đến hóa đơn giấy quy định tại Nghị định 51, Nghị định 04 tương ứng với thời hạn hiệu lực của hai Nghị định này, tức ngày 01/11/2020.
- Về xử phạt hành vi vi phạm quy định về đặt in hóa đơn (Điều 19)
Điều 19 Dự thảo quy định xử phạt đối với các hành vi:
- Đặt in hóa đơn mà không ký hợp đồng in bằng văn bản hoặc tổ chức nhận in hóa đơn tự in hóa đơn đặt in để sử dụng nhưng không có quyết định in hóa đơn của thủ trưởng đơn vị theo quy định (khoản 1);
- Không thanh lý hợp đồng in nếu quá thời hạn thanh lý hợp đồng quy định trong hợp đồng đặt in hóa đơn hoặc thời điểm kết thúc hợp đồng khi đã lập từ thông báo phát hành hóa đơn (điểm a khoản 3)
Dự thảo quy định xử phạt đối với các hành vi trên dường như chưa phù hợp với tính chất của hành vi vi phạm hành chính, bởi đây là giao dịch dân sự giữa bên đặt và nhận in do pháp luật về dân sự điều chỉnh. Xét trong mối quan hệ quản lý nhà nước, các hành vi này không tác động đáng kể (bên đặt in và bên nhận in dù có ký hợp đồng bằng văn bản, lời nói, hay hình thức khác hay không cũng không thay đổi bản chất của giao dịch giữa hai bên, nhà nước sẽ nắm được thông tin về số hóa đơn được in và phát hành dựa trên báo cáo của các chủ thể này).
Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ các quy định trên.
Góp ý tương tự, bỏ quy định tại điểm a khoản 3 Điều 20 Dự thảo.
- Về xử phạt hành vi vi phạm quy định về hủy hóa đơn (Điều 26)
Điểm c khoản 3 Điều 26 Dự thảo quy định xử phạt đối với hành vi “không hủy hóa đơn giấy còn tồn chưa sử dụng kể từ khi nhận được thông báo chấp nhận sử dụng hóa đơn điện tử của cơ quan thuế”. Quy định này dường như chưa phù hợp tại thời điểm trước ngày 01/11/2020, bởi theo phản ánh của doanh nghiệp thì quy định hiện hành vẫn cho phép được sử dụng song song hóa đơn giấy và hóa đơn điện tử. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc điều chỉnh hiệu lực của quy định này để đảm bảo tính thống nhất.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính về thuế, hóa đơn. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.