VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo
Kính gửi: Bộ Công Thương
Trả lời Công văn số 7290/BCT-XNK ngày 16/11/2022 của Bộ Công Thương về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến ban đầu như sau:
- Quản lý nhập khẩu gạo
Điều 1.8 Dự thảo (bổ sung Điều 10a vào Nghị định 107/2018/NĐ-CP) bổ sung việc quản lý nhập khẩu gạo khi xuất hiện lượng gạo nhập khẩu tăng có nguy cơ ảnh hưởng đến sản xuất trong nước. Việc bổ sung phạm vi điều chỉnh với nhập khẩu gạo cần xem xét ở các điểm sau:
- Các biện pháp quản lý nhập khẩu đã được quy định tại Luật Quản lý ngoại thương và các văn bản quy định chi tiết. Việc áp dụng biện pháp nào, căn cứ áp dụng, điều kiện áp dụng đều đã được quy định và các cơ quan nhà nước cần tham chiếu các quy định này khi áp dụng. Do vậy cần cân nhắc về sự cần thiết về quy định nàytại Dự thảo;
- Quy định như dự thảo hiện nay chưa đủ rõ ràng, chẳng hạn không rõ tiêu chí nào để đánh giá “tăng có nguy cơ ảnh hưởng đến sản xuất trong nước”? Không rõ các biện pháp quản lý nhập khẩu mà cơ quan nhà nước được đề xuất là gì?…
- Việc áp dụng các biện pháp quản lý hạn chế nhập khẩu không phải chỉ mang lại tác dụng tích cực, chẳng hạn như Tờ trình Dự thảo đã đề cập, việc nhập khẩu gạo tăng trong thời gian qua là để phục vụ sản xuất các mặt hàng khác như thức ăn chăn nuôi, bia… trong khi Việt Nam chuyển dịch sang xuất khẩu các loại gạo cao cấp hơn.[1] Do vậy, việc áp dụng các biện pháp quản lý nhập khẩu có thể ảnh hưởng đến các doanh nghiệp sản xuất khác trong nước, khiến giá thành sản xuất tăng, thiếu nguồn nguyên liệu đầu vào, giảm tính cạnh tranh của hàng hoá, sản phẩm từ Việt Nam… Việc áp dụng các biện pháp quản lý nhập khẩu cũng cần xem xét đến lợi ích của cả các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu để sản xuất;
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc việc bổ sung quy định này. Việc quản lý nhập khẩu theo chúng tôi nên áp dụng thống nhất quy định của Luật Quản lý ngoại thương. Dù vậy, Dự thảo có thể quy định về việc cung cấp thông tin từ các cơ quan nhà nước khác để cơ quan quản lý có thêm thông tin khi ra quyết định (như Dự thảo đã quy định).
- Tiêu chuẩn, quy chuẩn với bao bì xuất khẩu
Điều 1.13 Dự thảo quy định trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong việc xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia với bao bì sản phẩm gạo xuất khẩu. Theo chúng tôi, quy định này cần được xem xét thêm ở các điểm sau:
- Làm rõ hơn vềsự cần thiết: Tờ trình Dự thảo và các tài liệu liên quan không đề cập đến bất cập hay vấn đề nào liên quan đến bao bì sản phẩm gạo xuất khẩu. Không rõ tại sao lại cần ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến bao bì gạo xuất khẩu?
- Quy định này có thể gây tốn kém, tạo ra chí phí lớn cho các doanh nghiệp do phải thay đổi bao bì theo tiêu chuẩn cụ thể;
Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung giải trình rõ về nội dung này, trong đó cần đảm bảo lợi ích thu được lớn hơn chi phí xã hội bỏ ra. Nếu không, đề nghị bỏ quy định này.
- Hồ sơ, thủ tục kinh doanh xuất khẩu gạo
Khoản 4, 5 Điều 1 Dự thảo sửa đổi một số quy định liên quan đến hồ sơ, thủ tục kinh doanh xuất khẩu gạo, cụ thể:
- Bổ sung tài liệu chứng minh cơ sở vật chất đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn;
- Hậu kiểm: Sở Công Thương tiến hành kiểm tra sau 30 ngày kể từ ngày cấp giấy chứng nhận;
- Bộ Công Thương có thể yêu cầu Sở Công Thương kiểm tra, xác minh về tài liệu thông tin hồ sơ đề nghị cấp phép của thương nhân nếu có nghi ngờ;
Theo chúng tôi, quy định này cần được xem xét thêm ở hai điểm:
- Quy trình phức tạp: Không rõ cách thiết kế quy định đang đi theo hướng tiền kiểm hay hậu kiểm khi vừa yêu cầu nộp hồ sơ, tài liệu trước và tiến hành kiểm tra ngay sau khi cấp giấy chứng nhận?;
- Làm rõ hơn về sự cần thiết: trong các vấn đề được nêu ra tại Tờ trình, vấn đề các thương nhân gian dối trong hồ sơ đề nghị cấp phép dường như không phải là vấn đề lớn và nổi cộm (do không được đề cập), dù việc kiểm tra trong thời gian có hạn chế là chậm trễ ở một số trường hợp[2]. Như vậy, việc yêu cầu kiểm tra thực tế sau cấp phép với mọi trường hợp là không cần thiết và tốn kém thời gian, chi phí của doanh nghiệp và cả cơ quan nhà nước.
Đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi theo hướng bỏ quy định về kiểm tra điều kiện kinh doanh sau khi cấp phép. Cơ quan cấp phép thực hiện xem xét với tài liệu chứng minh về cơ sở vật chất. Việc kiểm tra chỉ thực hiện khi Bộ Công Thương nghi ngờ tính xác thực của hồ sơ (như Dự thảo đã bổ sung). Nếu không, nhằm đảm bảo yêu cầu tại Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2020[3], giữ vững kết quả cải cách điều kiện kinh doanh mà Nghị định 107/2018/NĐ-CP đã đạt được, đề nghị cơ quan soạn thảo không bổ sung quy định về hồ sơ (Điều 1.5 Dự thảo) mà chỉ thực hiện hậu kiểm.
Vấn đề liên quan đến kiểm tra điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo mà Tờ trình đưa ra là việc cơ quan nhà nước chưa kịp thời giám sát, báo cáo việc duy trì điều kiện kinh doanh của thương nhân.[4] Nghị định 107/2018/NĐ-CP đã có quy định về thẩm quyền kiểm tra của Bộ Công Thương định kỳ hoặc đột xuất, và quy định xử phạt rất mạnh với trường hợp không duy trì điều kiện (thu hồi Giấy chứng nhận).
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.
[1] Tờ trình Dự thảo, trang 7
[2] Tờ trình Dự thảo, trang 4.
[3] Nghị quyết 68/NQ-CP năm 2020 ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hoá quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 – 2025
[4] Tờ trình Dự thảo, trang 4