VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết về thành lập hoặc tham gia thành lập doanh nghiệp, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ

Thứ Hai 14:48 17-03-2025

Kính gửi: Bộ Khoa học và Công nghệ

Trả lời Công văn số 23/BKHCN-PTTTDN của Bộ Khoa học và Công nghệ về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết về thành lập hoặc tham gia thành lập doanh nghiệp, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến như sau:

  1. Giải thích từ ngữ

Khoản 4 Điều 3 Dự thảo quy định “Thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ được hiểu là việc đưa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ vào cuộc sống để phục vụ phát triển kinh tế, xã hội” dường như chưa hoàn toàn sát với khái niệm “thương mại hóa”.

Về khía cạnh kinh tế, “thương mại hóa” thường được hiểu là quá trình chuyển đổi các kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ thành sản phẩm hoặc dịch vụ có thể bán được trên thị trường, nhằm mục đích tạo ra lợi nhuận và mở rộng thị trường. Mục tiêu của việc “thương mại hóa” không chỉ dừng lại ở việc phục vụ phát triển kinh tế, xã hội, mà còn bao gồm việc áp dụng và kinh doanh các sản phẩm này một cách hiệu quả.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc sửa đổi, bổ sung quy định này theo hướng làm rõ hơn để phản ánh đúng bản chất của quá trình thương mại hóa, bao gồm cả khía cạnh kinh doanh và tạo ra giá trị thị trường.

  1. Mối quan hệ giữa các quy định tại Dự thảo với quy định của pháp luật doanh nghiệp

Dự thảo này có các quy định liên quan đến việc thành lập, tham gia thành lập doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, vì vậy cần phải xem xét trong mối quan hệ với pháp luật về doanh nghiệp. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét một số vấn đề sau để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật, cụ thể:

  1. Tài sản góp vốn và định giá tài sản góp vốn

Theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2020, “tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc đồng thuận hoặc do một tổ chức thẩm định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được trên 50% số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận” (khoản 2 Điều 36).

Chương II Dự thảo quy định về tài sản góp vốn và định giá tài sản góp vốn theo hướng xác định các loại tài sản góp vốn và cách thức định giá tài sản góp vốn. Điều này là phù hợp đối với trường hợp cơ sở công lập thành lập doanh nghiệp – việc định giá tài sản góp vốn do chủ sở hữu định giá hoặc thuê tổ chức thẩm định giá.

Đối với trường hợp tham gia thành lập, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp, việc định giá tài sản góp vốn cần phải được sự đồng ý của trên 50% số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận. Như vậy, kết quả của thẩm định giá tài sản góp vốn đối với trường hợp cơ sở công lập góp vốn vào doanh nghiệp thì cần phải xem xét các cổ đông, thành viên khác chấp thuận giá trị định giá hay không. Do đó, để đảm bảo tính thống nhất và thuận lợi trong quá trình áp dụng đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu để để giải quyết trường hợp:

Cơ sở công lập tham gia góp vốn, thành lập doanh nghiệp và thực hiện định giá theo quy định tại Nghị định này, thì việc định giá này có mặc nhiên được công nhận là giá trị tài sản góp vốn không hay là cần phải có sự đồng ý của các thành viên, cổ đông sáng lập? Trường hợp các thành viên, cổ đông sáng lập không đồng ý với giá trị định giá tài sản góp vốn, cơ sở công lập có phải định giá lại hoặc phải đồng ý với các thành viên, cổ đông sáng lập của doanh nghiệp hay không?

  1. Viên chức tham gia góp vốn, quản lý, điều hành doanh nghiệp

Chương IV Dự thảo quy định viên chức của cơ sở công lập có thể đăng ký tham gia góp vốn thành lập doanh nghiệp, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp. Điều này là phù hợp với khoản 4 Điều 23 Luật Thủ đô 2024 nhưng lại chưa phù hợp với Luật Doanh nghiệp 2020. Trong đề nghị xây dựng Dự thảo sửa đổi Luật Doanh nghiệp cũng đã đề xuất sửa đổi về đối tượng được phép tham gia thành lập doanh nghiệp là viên chức. Tuy nhiên, cho đến trước thời điểm Luật Doanh nghiệp sửa đổi được thông qua thì các văn bản pháp luật hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp vẫn đang quy định theo hướng viên chức không thuộc đối tượng được phép thành lập, tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp. Vì vậy, khi Nghị định này phát sinh hiệu lực, sẽ thiếu cơ sở pháp lý để thực hiện được quy định này. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu về thời điểm phát sinh hiệu lực của điều khoản này.

  1. Nguyên tắc sử dụng tài sản của cơ sở công lập để thành lập, tham gia thành lập, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp

Theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 4 Dự thảo, nguyên tắc sử dụng tài sản của cơ sở công lập để thành lập, tham gia thành lập, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp là “không làm mất quyền sở hữu về tài sản công; bảo toàn và phát triển tài sản Nhà nước giao”. Quy định này là phù hợp với pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, nhưng nhìn dưới góc độ của pháp luật doanh nghiệp, cần được xem xét ở các góc độ sau:

Đối với việc thành lập doanh nghiệp, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp khác thì các thành viên góp vốn phải chuyển quyền sở hữu tài sản góp vốn sang cho doanh nghiệp. Việc góp vốn chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty (khoản 3 Điều 35 Luật Doanh nghiệp). Như vậy, khi cơ sở công lập sử dụng tài sản để góp vốn, thành lập doanh nghiệp thì tài sản của tài sản công lập, trong đó có thể là tài sản công, sẽ phải chuyển quyền sở hữu tài sản sang cho công ty được góp vốn, thành lập. Vì vậy, nguyên tắc “không làm mất quyền sở hữu tài sản công” trong trường hợp này cần được cân nhắc, xem xét lại để phù hợp với pháp luật về doanh nghiệp.

Mặt khác, khoản 4 Điều 4 Dự thảo cũng quy định về các nguyên tắc “thực hiện các hoạt động khai thác, sử dụng tài sản theo cơ chế thị trường, đảm bảo công khai, minh bạch và tuân theo quy định của pháp luật”. Trong hoạt động kinh doanh, theo cơ chế thị trường, thì hoạt động kinh doanh có thể có những rủi ro. Nguyên tắc bảo toàn và phát triển tài sản Nhà nước giao – có thể phù hợp với nguyên tắc quản lý, sử dụng tài sản công, nhưng có thể là sự hạn chế trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

  1. Định giá tài sản là quyền sở hữu trí tuệ (Điều 9)

Điều 9 Dự thảo quy định về trình tự, thủ tục, thẩm quyền xác định giá trị tài sản trí tuệ của cơ sở công lập để thành lập, tham gia thành lập doanh nghiệp, góp vốn vào doanh nghiệp, theo đó cơ sở công lập sẽ thông báo công khai thông tin để tuyển chọn đơn vị tư vấn để xác định giá trị tài sản là quyền sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, Dự thảo lại không quy định rõ cách thức tuyển chọn đơn vị tư vấn là gì trong trường hợp có từ hai đơn vị tư vấn đăng ký cung cấp dịch vụ.

Trên đây là một số ý kiến của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết về thành lập hoặc tham gia thành lập doanh nghiệp, tham gia góp vốn vào doanh nghiệp để thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

Các văn bản liên quan