VCCI_Góp ý Dự thảo Đề nghị xây dựng Luật Thương mại điện tử

Thứ Hai 19:30 10-03-2025

Kính gửi:  Bộ Công Thương

Trả lời Công văn số 402/BCT-TMĐT ngày 15/01/2025 của Bộ Công Thương về việc đề nghị góp ý Dự thảo Đề nghị xây dựng Luật Thương mại điện tử (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có ý kiến ban đầu như sau:

  1. Vị trí, vai trò và phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật

Nghị định 52/2013/NĐ-CP (và các nghị định sửa đổi) là văn bản chuyên ngành điều chỉnh về hoạt động thương mại điện tử. Tại thời điểm ban hành Nghị định 52/2013/NĐ-CP, hệ thống pháp luật Việt Nam gần như chưa có văn bản điều chỉnh các vấn đề liên quan đến hoạt động này, do vậy Nghị định 52 thiết kế tương đối toàn diện, bao gồm cả các vấn đề như giao kết hợp đồng, bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ thông tin cá nhân, an toàn thanh toán…Thời gian qua, nhiều văn bản cấp luật và nghị định được ban hành để điều chỉnh riêng về các vấn đề chuyên biệt, trong đó có điều chỉnh cả các vấn đề này trên môi trường thương mại điện tử, có thể kể đến như:

– Luật Giao dịch điện tử quy định về giao kết hợp đồng, chữ ký điện tử, nền tảng số; dịch vụ tin cậy (trong đó có dịch vụ chứng thực hợp đồng);

– Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng quy định trách nhiệm của các chủ thể (người bán, nền tảng số trung gian) để đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng khi giao dịch qua thương mại điện tử;

– Luật An toàn thông tin, Luật An ninh mạng quy định về trách nhiệm của các bên trong đảm bảo an ninh, an toàn dữ liệu;

– Nghị định 13/2023/NĐ-CP (sắp tới là Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân) quy định về trách nhiệm của các bên thu thập, xử lý dữ liệu cá nhân;

– Dự thảo Luật Quảng cáo (sắp thông qua) quy định về trách nhiệm của các bên khi thực hiện hoạt động quảng cáo trực tuyến.

Ngoài ra, một số đạo luật chuyên ngành như Luật Viễn thông… đã có quy định điều chỉnh hoạt động trên môi trường số của các dịch vụ liên quan.

Do vậy, việc xây dựng Luật Thương mại điện tử (nâng cấp từ nghị định) cần xác định rõ phạm vi điều chỉnh, đặc biệt làm rõ trong mối tương quan với các Luật khác để tránh chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống pháp luật.

  1. Bảo vệ người kinh doanh nhỏ lẻ trên nền tảng thương mại điện tử

Khác so với thị trường truyền thống, thương mại điện tử có mỗi quan hệ phức tạp hơn với sự đan xen tương tác lẫn nhau của các chủ thể: người bán hàng hóa dịch vụ – sàn TMĐT – người tiêu dùng – các chủ thể khác (bên vận chuyển, thanh toán…). Pháp luật thương mại điện tử hiện nay tập trung chủ yếu vào các quy định bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, tương ứng với đó là trách nhiệm của người bán và sàn TMĐT. Trong khi đó, pháp luật dường như lại “bỏ ngỏ” quyền và lợi ích của một chủ thể quan trọng khác – người bán hàng hóa dịch vụ.

Các nền tảng TMĐT đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua, và dần trở thành kênh bán hàng hoá dịch vụ quan trọng của doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh. Về phía người tiêu dùng, 61% người dùng internet cho biết sàn TMĐT là kênh mua sắm trực tuyến ưa chuộng[1]. Về phía người bán, năm 2024 có 650.000 gian hàng trực tuyến trên các sàn TMĐT có phát sinh đơn hàng trên thương mại điện tử[2]. Doanh số của 5 sàn TMĐT hàng hoá phổ biến năm 2024 đạt 318.900 tỷ đồng. Sự phát triển này cho phép các nền tảng nắm giữ nhiều lợi thế quan trọng mà có thể tạo ra sự chênh lệch đáng kể về quyền lực trong quan hệ thương mại điện tử:

– Hiệu ứng mạng: các nền tảng lớn có số lượng người dùng lớn sẽ hưởng lợi từ hiệu ứng mạng, cho phép giá trị của nền tảng ngày càng lớn. Các nền tảng như vậy có quyền lực lớn trên thị trường;

– Lợi thế từ dữ liệu lớn: các nền tảng có khả năng thu thập, phân tích dữ liệu người dùng để cải thiện dịch vụ và tối ưu hoá doanh thu. Trong khi đó, doanh nghiệp nhỏ có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn dữ liệu tương tự, khiến họ mất đi lợi thế cạnh tranh;

– Nguy cơ phụ thuộc vào nền tảng: người bán có thể gặp khó khăn trong việc chuyển đổi kênh bán hàng khi chỉ một số ít nền tảng lớn và thói quen mua sắm của người tiêu dùng đã được định hình.

Trong khi đó, người bán trên các sàn TMĐT phần lớn là hộ, cá nhân kinh doanh nhỏ. Khác với mối quan hệ giữa các thương nhân theo Luật Thương mại – nơi các bên có thể tự do thỏa thuận và đạt được sự bình đẳng trong giao dịch, người bán nhỏ lẻ trên TMĐT thường ở vị thế yếu hơn nhiều so với các nền tảng TMĐT. Họ có thể dễ bị áp đặt các chính sách bất lợi và mất khả năng thương lượng, như thay đổi điều khoản đột ngột, bị đình chỉ hoặc cấm mà không có lý do rõ ràng, hạn chế tiếp cận dữ liệu… Các hành vi này có thể ảnh hưởng bất lợi với cá nhân kinh doanh nhỏ, đưa vào vào tình thế bị động và dần “bào mòn” sức khỏe và nhiệt huyết kinh doanh của họ.

Nghiên cứu của Ủy ban Châu Âu đã chỉ ra 46% doanh nghiệp trên thị trường EU sử dụng nền tảng trực tuyến gặp phải các vấn đề trong quan hệ thương mại với nền tảng, trong số đó, 21% cho biết các vấn đề xảy ra thường xuyên. Những doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nền tảng (chiếm hơn 50% doanh thu từ nền tảng) có khả năng gặp vấn đề cao hơn đáng kể (75%) và thường xuyên hơn (33%). Thiệt hại kinh tế ước tính từ 2 đến 19.5 tỷ Euro mỗi năm.[3]

Về hệ thống pháp luật hiện tại, Luật Cạnh tranh 2020 đã tạo ra hành lang pháp lý để xử lý các hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh hoặc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Đây là cơ chế rất tốt và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, các hành vi bất lợi kể trên có thể diễn ra mà không cần có thoả thuận hay ở vị trí thống lĩnh.[4] Đây là “khoảng hở” giữa pháp luật cạnh tranh và thực tiễn hoạt động thương mại điện tử.

Giai đoạn trước đây, trong giai đoạn thâm nhập thị trường, các nền tảng thường tạo điều kiện thuận lợi cũng như ưu đãi (kể cả tài chính) cho người bán để phát triển thị trường, tạo hiệu ứng mạng thu hút cả người tiêu dùng và người bán tham gia nền tảng. Hiện nay, khi thị trường dần định hình, chính sách cần thiết kế để đảm bảo cân bằng quyền lợi giữa các chủ thể. Việc này sẽ đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường TMĐT, thúc đẩy các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh nhỏ tiếp tục gia nhập, hoạt động và phát triển trong nền kinh tế số. Khi đó, thị trường TMĐT mới có thể tiếp tục phát triển lành mạnh và bền vững và đảm bảo mọi chủ thể đều có thể hưởng lợi ích từ nền kinh tế số.

Từ những phân tích trên, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung chính sách về bảo vệ quyền lợi cho người bán trên nền tảng TMĐT.

Về chính sách cụ thể, chính sách này không nên tập trung vào quy định hành chính. Thay vào đó, các quy định nên tập trung vào tăng cường tính minh bạch trong hoạt động của sàn TMĐT đối với người bán, đảm bảo khả năng tiếp cận dữ liệu kinh doanh và quyền tự do thương lượng của người bán.

 

 

  1. Cắt giảm thủ tục hành chính và đẩy mạnh hoạt động hậu kiểm

Ban hành trong giai đoạn đầu phát triển thương mại điện tử, Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định khá nhiều thủ tục hành chính với phần lớn các hoạt động thương mại điện tử của các doanh nghiệp, cá nhân. Có thể suy đoán rằng nhà làm luật cần kiểm soát chặt chẽ các rủi ro, đặc biệt trong giai đoạn đầu khi chưa thể lường hết các tác động của hoạt động này. Qua hơn thập kỷ phát triển, thương mại điện tử đã và đang trở thành xu hướng tất yếu với sự tham gia đông đảo của các doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh. Các biện pháp và phương thức kiểm tra, giám sát ngày càng hoàn thiện, đồng thời, kiến thức và kỹ năng của người tiêu dùng cũng tốt hơn trước rất nhiều. Do vậy, Dự thảo cần nghiên cứu, xác định lại rủi ro của các hoạt động thương mại điện tử để cắt giảm thủ tục hành chính và đẩy mạnh sang hoạt động hậu kiểm.

  • Thủ tục thông báo với website thương mại điện tử bán hàng

Website thương mại điện tử bán hàng là website do thương nhân tự thiết lập để phục vụ hoạt động kinh doanh của chính mình. Như vậy, về bản chất, đây chỉ là một kênh bán hàng mới (trên internet) bên cạnh kênh bán hàng truyền thống, không phải là một công việc kinh doanh mới. Trong khi đó, các thương nhân đã phải thực hiện các thủ tục đăng ký với Nhà nước trước khi bắt đầu kinh doanh (đăng ký kinh doanh, chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và chứng nhận chất lượng sản phẩm, hàng hoá). Việc thương nhân khi triển khai thêm một kênh bán hàng trên internet phải thực hiện thêm thủ tục thông báo vô hình chung tạo ra gánh nặng hành chính không cần thiết.

Trước đây, Nghị định 52/2013/NĐ-CP yêu cầu mọi website TMĐT bán hàng phải thực hiện thủ tục thông báo, dù chỉ có các tính năng đơn giản như giới thiệu sản phẩm. Sau đó, Nghị định 85/2021/NĐ-CP giảm phạm vi xuống các website TMĐT bán hàng có chức năng đặt hàng trực tuyến. Tuy nhiên, việc giảm phạm vi này không có quá nhiều ý nghĩa. Việc lập website TMĐT bán hàng trở nên vô cùng phổ biến trong thời đại kinh doanh số hiện nay. 44% doanh nghiệp sở hữu website, trong đó 42% website có tính năng đặt hàng trực tuyến, theo khảo sát được thực hiện bởi Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương.[5] Số lượng hồ sơ thực hiện thông báo cũng rất lớn, 105.103 hồ sơ thông báo năm 2023.[6] Hơn nữa, cho đến nay, cũng chưa hề có phản ánh tác động tiêu cực đến kinh tế – xã hội từ việc các doanh  nghiệp không đăng ký website TMĐT bán hàng. Như vậy, có thể thấy các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thương mại điện tử không mang lại lợi ích quản lý nhà nước nào rõ ràng, thậm chí còn đang trở thành rào cản với thương nhân khi tận dụng cơ hội từ thương mại điện tử.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bãi bỏ hoàn toàn thủ tục thông báo với các website thương mại điện tử bán hàng. Việc kiểm soát hoạt động của các trang này có thể thực hiện theo phương pháp hậu kiểm thay vì phương pháp tiền kiểm.

  • Thủ tục cấp phép với sàn thương mại điện tử nhỏ

Hiện nay, quy định pháp luật yêu cầu tất cả các sàn thương mại điện tử, bất kể quy mô và hình thức hoạt động, đều phải thực hiện thủ tục cấp phép trước khi hoạt động. Phương thức quản lý đánh đồng như vậy là chưa hợp lý vì các lý do sau:

Một, việc này không phù hợp với các sàn TMĐT nhỏ, khiến các sàn này hoặc sàn mới phát hành thử nghiệm (startup) bị quản lý quá chặt. Lĩnh vực mạng xã hội, một lĩnh vực có tính chất và tác động tương tự, pháp luật cũng cho phép quản lý lỏng với các mạng xã hội nhỏ, cụ thể mạng xã hội có lượt truy cập thường xuyên thấp chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo, nếu đủ lớn mới cần thực hiện thủ tục cấp phép, theo Điều 24.6.a Nghị định 147/2024/NĐ-CP.

Hai, quy định này không phù hợp với tính chất hoạt động của một số sàn TMĐT. Các sàn này chỉ cho phép người bán đăng tải thông tin về sản phẩm. Việc giao dịch giữa các bên (giao kết, thanh toán, vận chuyển) đều thực hiện thông qua các phương thức khác (như điện thoại, chat…). Thực chất, các sàn TMĐT này chỉ như một kênh quảng cáo, tiếp thị sản phẩm, có thể hình dung như một “biển rao vặt online”. Các bước quan trọng trong quá trình giao dịch đều không diễn ra trên sàn TMĐT. Vì thế, không có nhiều rủi ro trong mô hình hoạt động này.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu cơ chế quản lý theo hướng giảm bớt các thủ tục đối với các sàn TMĐT nhỏ. Theo đó, các sàn TMĐT nhỏ hoặc các sàn TMĐT chỉ cung cấp tính năng giới thiệu, trưng bày sản phẩm chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo khi bắt đầu hoạt động, và sẽ thực hiện thủ tục cấp phép khi đã phát triển đến một ngưỡng nhất định.

  1. Tạo sân chơi bình đẳng giữa các chủ thể trên thương mại điện tử

Hiện nay, các nền tảng TMĐT có vốn đầu tư nước ngoài thành lập pháp nhân tại Việt Nam cần xin nhiều giấy phép chỉ để thực hiện hoạt động thương mại điện tử. Một là giấy phép thiết lập website cung cấp dịch vụ TMĐT (đăng ký với Bộ Công Thương) theo Nghị định 52/2013/NĐ-CP. Hai là giấy phép kinh doanh (với Sở Công Thương) theo Nghị định 09/2018/NĐ-CP. Theo phản ánh của doanh nghiệp, giấy phép kinh doanh rất khó xin vì đây bản chất là một biện pháp bảo hộ thị trường nội địa khi Việt Nam gia nhập các hiệp định thương mại tự do. Tuy nhiên, giấy phép kinh doanh này lại không áp dụng với các nền tảng TMĐT xuyên biên giới, trong khi các nền tảng này có vốn 100% nước ngoài. Việc này tạo ra sự phân biệt giữa sàn TMĐT thành lập trong nước với sàn TMĐT xuyên biên giới, từ đó tạo ra sự bất bình đẳng về môi trường kinh doanh. Vô hình trung, điều này tạo ra sự bảo hộ ngược với ngành TMĐT, mà về lâu dài có thể khuyến khích các nhà đầu tư không tham gia đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung chính sách đảm bảo bình đẳng giữa các chủ thể hoạt động TMĐT.

  1. Danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu qua TMĐT

Dự thảo Luật Thương mại điện tử dự kiến đưa ra quy định về Danh mục hàng hóa được phép nhập khẩu qua TMĐT. Mục đích của quy định là nhằm kiểm soát các loại hàng hóa có thể gây hại cho an ninh quốc gia, sức khỏe cộng đồng và môi trường của Việt Nam. Để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tránh vi phạm các cam kết quốc tế của Việt Nam, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc những vấn đề sau:

– Tiếp cận theo hướng quy định danh mục hàng hóa cấm nhập khẩu: Thay vì xác định danh mục hàng hóa được phép nhập khẩu, nên xây dựng danh mục hàng hóa bị cấm nhập khẩu qua TMĐT. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam, theo đó, cá nhân và doanh nghiệp được phép thực hiện mọi hoạt động mà pháp luật không cấm, bao gồm cả hoạt động xuất nhập khẩu.

– Xem xét các biện pháp quản lý thay thế: Thay vì áp dụng lệnh cấm nhập khẩu, có thể sử dụng các biện pháp quản lý khác như thuế quan, quy định về hiệu suất năng lượng hoặc các tiêu chuẩn kỹ thuật phù hợp.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Đề nghị xây dựng Luật Thương mại điện tử. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.

[1] Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương, Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2023, trang 46

[2] Thương mại điện tử bùng nổ, vì sao có đến 150.000 nhà bán rời sàn?

[3] Fairness and transparency for business users of online services

[4] Nghiên cứu đánh giá tác động của EU khi đề xuất Quy định về việc thúc đẩy công bằng và minh bạch cho người dùng doanh nghiệp của các dịch vụ trung gian trực tuyến

[5] Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương, Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2023, trang 58

[6] Cục Thương mại Điện tử và Kinh tế số – Bộ Công Thương, Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam năm 2023, trang 26

Các văn bản liên quan