Từ thực tiễn bồi thường cho người bị oan và một số kiến nghị – Ths. Nguyễn Tuấn Khanh

Thứ Sáu 09:49 04-07-2008

            Bồi thường thiệt hại cho ông Hoàng Minh Tiến (Tp Hà Nội) và ông Lương Ngọc Phi (tỉnh Thái Bình) có thể được xem như những ví dụ điển hình cho việc bồi thường theo Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Vụ đòi bồi thường của ông Hoàng Minh Tiến đã được xét xử phúc thẩm, vụ của ông Lương Phi vẫn đang trong quá trình giải quyết. Tuy nhiên, quá trình bồi thường cho hai trường hợp này có rất nhiều điểm chung, phản ánh thực trạng việc thường thiệt hại cho người bị oan hiện nay, cần được tổng kết thành những kinh nghiệm thực tiễn để phục vụ cho việc xây dựng Luật Bồi thường Nhà nước ở Việt Nam trong thời gian tới. 

            Qua theo dõi những diến biến về việc bồi thường oan sai trong hai trường hợp trên, bài viết này đề cập đến một số khía cạnh của việc thực hiện Nghị quyết 388 và kiến nghị đối với việc xây dựng Luật Bồi thường nhà nước. 

            I. Tóm tắt quá trình xử lý hình sự oan đối với hai chủ doanh nghiệp. 

            1. Vụ án hình sự oan đối với ông Hoàng Minh Tiến (nguyên Phó chủ tịch Hội đồng XNK, Giám đốc điều hành Liên hiệp Khoa học sản xuất Việt Nam), Giám đốc cửa hàng XNK Đồng Tiến (DOTIMEXCO).      

       Vụ án hình sự oan này thực chất là tranh chấp kinh tế liên quan đến khoản nợ 211 triệu đồng giữa cửa hàng Đồng Tiến và Tổng công ty Xây dựng Hà Nội, trong một hợp đồng liên doanh xuất khẩu da trâu bò. Hai bên thỏa thuận hạn trả nợ cuối cùng là 31/12/1992, nhưng chưa đến hạn thì ông Tiến đã bị Công an Hai Bà Trưng bắt giam. 

            - Ngày 22/11/1992, ông Tiến bị Công an quận Hai Bà Trưng mời lên trụ sở làm việc. Từ đó cho đến 30/12/1993, ông Tiến bị tạm giam với cáo buộc về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN" và "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân" (theo Điều 135 và 158 Bộ luật hình sự năm 1985). 

            - Ngày 28-30/12/1993 TAND TP. Hà Nội  đã tuyên phạt Hoàng Minh Tiến 30 tháng tù cho hưởng án treo về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN". 

            - Ngày 12/10/1994 TAND Tối cao đã huỷ án sơ thẩm của TAND Tp Hà Nội để điều tra, xét xử lại 

            - Ngày 14,15 tháng 12/1995 TAND Tp Hà Nội xử sơ thẩm (lần thứ 2) tuyên Hoàng Minh Tiến không phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN". 

            - Ngày 26/12/1995, VKSND Tp Hà Nội quyết định kháng nghị. 

            - Ngày 14 và 15/6/1996, TAND Tối cao xử phúc thẩm và tuyên Hoàng Minh Tiến không phạm tội. 

            2. Vụ án hình sự oan đối với ông Lương Ngọc Phi (Nguyên GĐ Cty Hoà Bình - tỉnh Thái Bình): 

            - Ngày 30/4/1998, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Bình khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với ông Lương Ngọc Phi về tội "Lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản XHCN". 

            - Ngày 06/07/1998, khởi tố bổ sung tội "Trốn thuế" đối với Lương Ngọc Phi. 

            - Ngày 29/9/1999, TAND tỉnh Thái Bình đã xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, tuyên buộc ông Lương Ngọc Phi tổng cộng 17 năm tù giam về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN" và tội "Trốn thuế". 

            - Ngày 25-26/5/2000, TAND Tối cao đã xử phúc thẩm tuyên ông Phi không phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN", huỷ án sơ thẩm về tội "Trốn thuế" để điều tra lại. 

            - Ngày 12/12/2003, VKSND tỉnh Thái Bình đã ra quyết định đình chỉ điều tra đối với ông Phi về tội "Trốn thuế". 

            II. Những bất cập trong việc giải quyết bồi thường cho người bị oan 

            Qua thực tiễn giải quyết bồi thường cho hai trường hợp trên, có thể thấy rằng việc bồi thường nhà nước hiện nay đang tồn tại một số bất cập sau: 

            1. Phạm vi của Nghị định số 47/CP ngày 03/5/1997 của Chính phủ về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra quá rộng, thiếu tính cụ thể nên rất khó xác định được cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường. 

            Điển hình là đối với trường hợp của ông Hoàng Minh Tiến: Ngay sau khi được minh oan (mặc dù Nghị quyết 388 chưa ban hành), ông Hoàng Minh Tiến đã gửi nhiều đơn yêu cầu bồi thường  theo Nghị định số 47/CP nêu trên tới các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, không có cơ quan nào nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho ông Tiến. Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra được UBTVQH khoá XI ban hành ngày 17/3/2003 thì đến ngày 13/5/2003, ông Tiến lại có đơn yêu cầu đòi bồi thường nhưng đơn vẫn chưa được chấp nhận vì phải chờ Thông tư hướng dẫn. Đơn của ông Tiến chỉ được chấp nhận sau khi VKSND Tối cao, Bộ Công an, TAND Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 388. 

         2. Xảy ra sự tranh chấp không đáng có trong việc xác định cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường. 

          Với vụ bồi thường cho ông Hoàng Minh Tiến: Sau khi có Thông tư 01/2004 nói trên, ngày 5/5/2004, ông Tiến làm đơn gửi tới TAND Tp Hà Nội. Ngày  25/5/2004 TAND Tp Hà Nội trả lời không chịu trách nhiệm bồi thường và chuyển hồ sơ sang VKSND Tp Hà Nội. Ngày 8/6/2004 VKSND Tp Hà Nội lại cho rằng thẩm quyền thuộc về TAND Tp Hà Nội và chuyển hồ sơ sang TAND Tp Hà Nội. Đến cuối tháng 6/2004, tranh chấp về trách nhiệm bồi thường mới được giải quyết, sau khi có ý kiến của cơ quan trung ương. Kết quả cuối cùng là VKSND Tp Hà Nội có trách nhiệm bồi thường. 

         Với vụ bồi thường cho ông Lương Ngọc Phi: Ngày 22/7/2004, ông Lương Ngọc Phi nộp đơn yêu cầu bồi thường nhưng bị các cơ quan tiến hành tố tụng tỉnh Thái Bình từ chối. Ông Phi liên tục làm đơn kêu cứu và được các cơ quan Trung ương vào cuộc để tìm cách giải quyết. Nhiều cuộc họp giữa các cơ quan có thẩm quyền từ Trung ương đến địa phương để xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Cuối cùng, ngày 15/5/2006, Văn phòng Quốc hội có báo cáo kết quả làm việc của Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu với lãnh đạo TAND Tối cao, VKSND Tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội  về việc giải quyết bồi thường thiệt hại đối với ông Lương Ngọc Phi và  kết luận:  TAND tỉnh Thái Bình là cơ quan phải bồi thường thiệt hại cho ông Lương Ngọc Phi theo Nghị quyết 388. 

         Mặc dù Thông tư số 01/2004 nói trên quy định: "cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị oan là cơ quan xử lý oan sau cùng, không phụ thuộc có cơ quan tiến hành tố tụng trước đó có xử lý oan một phần” nhưng trong cả hai vụ việc trên vẫn có cách hiểu không thống nhất và xảy ra sự tranh chấp trong việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Cuối cùng phải có cơ quan làm “trọng tài” để “phán xử”. Đây là sự tranh chấp không đáng có, bởi lẽ với vụ của ông Hoàng Minh Tiến, trong quá trình chưa phân định cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường thì Báo Pháp luật (Bộ Tư pháp) ra ngày 11/6/2004 đã có bài viết: "Vụ bồi thường oan sai đầu tiên tại Tp. Hà Nội: Cơ quan nào có trách nhiệm bồi thường?" và chỉ rõ VKSND Tp Hà Nội phải chịu trách nhiệm bồi thường. Tương tự như vậy, về vụ của ông Lượng Ngọc Phi, phải đến ngày 15/5/2006, mới có thông báo kết luận TAND tỉnh Thái Bình là cơ quan phải bồi thường nhưng trước đó, ngày 15/11/2004, Báo Pháp luật cũng có bài viết: "Vụ đòi bồi thường oan sai lớn nhất tỉnh Thái Bình: Cơ quan nào chịu trách nhiệm bồi thường?" và khẳng định TAND tỉnh Thái Bình phải chịu trách nhiệm bồi thường. Như vậy, trước khi cần đến sự can thiệp của cơ quan trung ương, thì báo chí đã đưa ra quan điểm xác định trách nhiệm bồi thường cho cả hai vụ việc này rất rõ ràng, chính xác, đúng theo đúng tinh thần của Nghị quyết 388 và Thông tư 01/2004, trong khi đó các cơ quan bảo vệ pháp luật lại tỏ ra lúng túng (?). 

            3. Chỉ thương lượng được những yêu cầu cơ bản nhất. 

         - Với vụ bồi thường cho ông Hoàng Minh Tiến:  Sau khi VKSND Tp Hà Nội xin lỗi công khai đối với ông Tiến (ngày 28/7/2004), việc thương lượng giữa ông Tiến và VKSND Tp Hà Nội được tiến hành trong các ngày: 10/8/2004; 12/8/2004; 7/9/2004. Ông Hoàng Minh Tiến yêu cầu VKSND Hà Nội bồi thường hơn 4 tỷ đồng cho 13 khoản nhưng đại diện VKSND Tp Hà Nội chỉ chấp nhận bồi thường gần 27,9 triệu đồng về tinh thần cho ông Tiến cho 403 ngày bị tạm giam và hơn 906 ngày tại ngoại.  

         Ngày 1/10/2004 ông Hoàng Minh Tiến khởi kiện VKSND Tp Hà Nội ra TAND quận Hai Bà Trưng. Ngày 2/6/2005 TAND quận Hai Bà Trưng đã xét xử vụ kiện theo thủ tục sơ thẩm, VKSND Tp Hà Nội vẫn chỉ bị tuyên buộc phải thanh toán cho ông Tiến số tiền gần 27,9 triệu đồng và tiền công làm con dấu (của DOTIMEXCO) nếu ông Tiến xuất trình hoá đơn hợp pháp chứng minh cho số tiền khắc dấu. Toà bác các yêu cầu khác của ông Tiến. 

          Ngày 9/6/2005 ông Tiến làm đơn kháng cáo đề nghị TAND Tp Hà Nội xét xử phúc thẩm, yêu cầu buộc VKSND Tp Hà Nội phải bồi thường thiệt hại 13 khoản gồm 2,7 tỷ đồng và trả lại ngôi nhà số 6/295 Bạch Mai. Trong các ngày 28/2/2006 và ngày 01 đến 06/3/2006, TAND Tp Hà Nội đã mở phiên xử phúc thẩm vụ kiện. Kết quả xét xử phúc thẩm công nhận sự thoả thuận của ông Tiến và VKSND Tp Hà Nội về khoản tiền bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần là hơn 33,6 triệu đồng và buộc VKSND Tp Hà Nội còn phải bồi thường thiệt hại về vật chất (gồm tiền thuê luật sư, tiền xe ôm thăm nuôi, tiền lương trong thời gian bị tạm giam) gần 11 triệu đồng. Tổng số tiền mà VKSND Tp Hà Nội phải thanh toán cho ông Tiến chỉ gần 44,5 triệu đồng. Tất cả các yêu cầu khác của ông Tiến đều bị TAND Tp Hà Nội bác bỏ (bao gồm: thu nhập không thường xuyên của cửa hàng Đồng Tiến; tiền cấp dưỡng cho mẹ và 3 con trong thời gian bị bắt giam oan; thiệt hại hơn 17.000 USD do ANIMEX chiếm giữ; chi phí đi Thái Lan; đồ dùng của gia đình như tivi, xem máy, cát sét; tài liệu, hồ sơ chưa trả trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; ngôi nhà số 6/295 Bạch Mai, Tp Hà Nội). 

           - Với vụ bồi thường cho ông Lương Ngọc Phi: Sau khi TAND tỉnh Thái Bình xin lỗi công khai đối với ông Lương Ngọc Phi (ngày 13/6/2006), quá trình thương lượng giữa ông Phi và TAND tỉnh Thái Bình kéo dài trong nhiều tháng, qua 6 buổi làm việc vào các ngày: 6/7/2006; 15/8/2006; 6/2/2007; 9/2/2007 và ngày 19/4/2007. Hai bên chỉ thương lượng thành với 4 mục nhỏ. Theo đó, TAND tỉnh Thái Bình phải bồi thường cho ông Phi là số ngày bị giam oan (1.066 ngày), số ngày bị tại ngoại (2.030 ngày), số tiền thăm nom trong thời gian giam giữ và tiền thuê luật sư. Tổng số tiền của 4 mục này là hơn 163 triệu đồng. Ngày 8/5/2007, TAND tỉnh Thái Bình ra Thông báo số 581/2007/TA về việc thương lượng không thành và chỉ công nhận hai khoản thương lượng không thành là tiền lương bị mất và tiền bồi dưỡng sức khoẻ trong thời gian bị giam giữ. TAND tỉnh Thái Bình đã từ chối việc thương lượng về các khoản vật chất, tài sản còn lại mà ông Phi yêu cầu. Lý do được đưa ra là UBTP (Uỷ ban thẩm phán TAND tỉnh Thái Bình - NV) cho chủ trương giải quyết "không thuộc trách nhiệm bồi thường của cơ quan TAND tỉnh Thái Bình". TAND tỉnh Thái Bình còn cho rằng: "phần tài sản mà ông Phi đòi bồi thường phải trải qua một quá trình điều tra phức tạp, trong khi đó Nghị quyết 388 không quy định cho việc điều tra… do vậy việc thương lượng trở lên khó khăn không thực hiện được". 

         III. Một số kiến nghị đối với việc xây dựng Luật Bồi thường nhà nước. 

            Nhằm cụ thể hoá các quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/CP về việc giải quyết bồi thường thiệt hại do công chức, viên chức nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra nhưng Nghị định dường như không được thực thi trên thực tế. Nghị quyết 388 ra đời, bước đầu đã thể hiện được sự "sòng phẳng" giữa Nhà nước với công dân nhưng mới chỉ áp dụng trong lĩnh vực tố tụng hình sự và đang bộc lộ một số vướng mắc trong việc xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường, đối tượng được bồi thường, thủ tục bồi thường và mức bồi thường. Tuy vậy, từ thực tiễn thực hiện Nghị định 47/CP và việc bồi thường cho người bị oan theo Nghị quyết 388 có thể rút ra được một nhược điểm cần phải lưu ý xây dựng Luật Bồi thường Nhà nước. Để luật Bồi thường Nhà nước có tính khả thi, việc xây dựng Luật này cần chú ý đến một số vấn đề cơ bản sau: 

            Thứ nhất, bảo đảm tính cụ thể trong việc xác định phạm vi bồi thường nhà nước. 

           Để khắc phục những hạn chế, bất cập từ việc thực hiện Nghị định 47/CP và Nghị quyết 388 và bảo đảm Luật Bồi thường Nhà nước sau khi ban hành có tính khả thi cao thì phạm vi bồi thường Nhà nước bước đầu chỉ nên giới hạn trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp. Trong mỗi lĩnh vực, việc bồi thường cũng chỉ nên xác định trong một số nhóm hành vi, quyết định cụ thể. Đối với lĩnh vực hành pháp, đây là lĩnh vực quyền lực rộng nhất, nếu chỉ quy định chung những yếu tố cấu thành trách nhiệm bồi thường nhà nước thì sẽ rất khó thi hành (giống như Nghị định 47/CP) và có khả năng phát sinh nhiều khiếu kiện trong việc thực thi. Vì vậy, trong lĩnh vực hành pháp, cần liệt kê chi tiết những quyết định hành chính, hành vi hành chính phổ biến gắn liền với việc thực hiện trực tiếp quyền lực Nhà nước mà gây thiệt hại cho người dân thì mới phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước (để liệt kê những trường hợp phổ biến đó, có thể tham khảo Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Trong lĩnh vực tư pháp, trên cơ sở kế thừa việc thực hiện Nghị quyết 388 trong thời gian qua, trách nhiệm bồi thường trong lĩnh vực này cần được mở rộng hơn so với hiện nay, không chỉ cho những người bị oan trong tố tụng hình sự như hiện nay mà cần phải liệt kê thêm những trường hợp cụ thể (trong cả tố tụng hành chính và dân sự) nếu người dân bị thiệt hại thì cũng có quyền yêu cầu Nhà nước bồi thường. Ngoài ra, cần phân biệt bồi thường trong lĩnh vực tư pháp với việc bồi thường cho người bị oan do hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Bồi thường cho người bị oan chỉ nên coi là đền bù cho người bị oan thì mới đúng với bản chất và có tính khả thi trong việc xác định trách nhiệm của nhà nước. 

            Thứ hai, thiết lập cơ quan chuyên môn có thẩm quyền xác định cơ quan chịu trách nhiệm bồi thường.
 
          Để đảm bảo thuận lợi cho người dân trong việc yêu cầu cơ quan nhà nước bồi thường thiệt hại, trước hết, cần xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường là cơ quan trực tiếp quản lý công chức đã gây thiệt hại. Tuy nhiên, để tránh trường hợp cơ quan trực tiếp quản lý công chức đã gây thiệt hại từ chối trách nhiệm bồi thường một cách trái pháp luật hoặc gây khó khăn cho người yêu cầu bồi thường thì cần có cơ quan chuyên môn về pháp luật có chức năng tư vấn, trợ giúp pháp lý, hoạt động chuyên trách để hỗ trợ về chuyên môn, nghiệp vụ cho quá trình giải quyết bồi thường. Cơ quan này có thẩm quyền xác định cơ quan có trách nhiệm bồi thường trong trường hợp người yêu cầu bồi thường không xác định được cơ quan có trách nhiệm bồi thường hoặc bị cơ quan có trách nhiệm bồi thường đùn đẩy, né tránh (thay vì phải chờ các cơ quan cấp trên, thậm chí là cả những cơ quan Trung ương can thiệp như hai vụ bồi thường cho người bị oan đã nêu ở trên). 

          Thứ ba, đơn giản hoá thủ tục đền bù cho người bị oan trong tố tụng hình sự.
 
         Trong cả hai vụ bồi thường cho người bị oan theo Nghị quyết 388 đã nêu ở trên, người bị oan và cơ quan có trách nhiệm bồi thường chỉ thoả thuận được những khoản bồi thường cơ bản nhất là thiệt hại về tinh thần (số ngày giam giữ, số ngày tại ngoại) còn các khoản yêu cầu khác của người bị oan về vật chất, tài sản hầu hết không được chấp nhận. Thực chất, đây chỉ là những khoản tiền đền bù cho người bị oan. Việc xác định khoản tiền và thủ tục chi trả rất đơn giản vì số ngày bị giam giữ, số ngày tại ngoại là không thay đổi với mức đền bù cũng đã được quy định cụ thể, theo "công thức" có sẵn nên hai bên không cần phải thương lượng thoả thuận ít hay nhiều và tiền đền bù đều được lấy từ ngân sách nhà nước. Chính vì vậy, việc đền bù cho người bị oan trong tố tụng hình sự  cần được thực hiện theo thủ tục đơn giản hơn hiện nay. Luật Bồi thường nhà nước nên quy định cơ quan tiến hành tố tụng đã ban hành bản án, quyết định mà qua đó xác định một người bị oan thì đồng thời là cơ quan quyết định mức đền bù cho người bị oan. Nếu người bị oan còn yêu cầu bồi thường thiệt hại về tài sản thì việc giải quyết được thực hiện theo thủ tục bồi thường nhà nước nói chung. 

         Thứ tư, tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm quyền khởi kiện của người yêu cầu bồi thường. 

          Trước hết, cần khẳng định rằng việc thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường và người yêu cầu là rất cần thiết bởi lẽ nếu thương lượng thành, việc giải quyết  bồi thường sẽ rất nhanh chóng và giảm thiểu các chi phí không cần thiết. Qua thương lượng hai bên (người yêu cầu bồi thương và cơ quan có trách nhiệm bồi thường) có thêm điều kiện bổ sung các chứng cứ, tài liệu, cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người yêu cầu bồi thường, Luật Bồi thường Nhà nước vẫn cần quy định và hoàn thiện cơ chế khởi kiện đòi bồi thường. 

          Với hệ thống Toà án như hiện nay, để bảo đảm quyền khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại và tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu bồi thường thì Luật Bồi thường nhà nước nên quy định cả Toà Dân sự và Toà Hành chính đều có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu đòi bồi thường (nhưng tuỳ theo từng trường hợp cụ thể). Vì rằng, Toà Hành chính hiện cũng đang có thẩm quyền giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại mà yêu cầu đó được đặt ra gắn liền với nội dung việc giải quyết các vụ án hành chính. Cụ thể là, khi khởi kiện vụ án hành chính, người khởi kiện vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên với cách tiếp cận xây dựng phạm vi bồi thường nhà nước trong cả trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp như đã nêu ở phần trên thì có nhiều trường hợp người yêu cầu bồi thường không thể khởi kiện ra Toà Hành chính vì không thuộc những trường hợp khiếu kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà Hành chính. Vì vậy, những trường hợp này cần được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự bằng vụ kiện dân sự./. 

(Nguồn: Tạp chí Dân chủ & Pháp luật)
 

Các văn bản liên quan