Góp ý Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế
Kính gửi: Tòa án nhân dân tối cao
Trả lời Công văn số 381/TANDTC-PC của Tòa án nhân dân tối cao về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến góp ý như sau:
1. Về áp dụng pháp luật (Điều 4)
– Pháp luật để giải quyết tranh chấp
Điểm b khoản 2 Điều 4 Dự thảo đưa ra hai phương án về áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp tại Tòa án chuyên biệt, cụ thể:
Phương án 1: Các bên được thỏa thuận lựa chọn áp dụng pháp luật nước ngoài, án lệ nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế để giải quyết tranh chấp
Phương án 2: Các bên được thỏa thuận lựa chọn áp dụng hệ thống thông luật để giải quyết tranh chấp.
Phương án 1 là hợp lý, bởi vì: phạm vi pháp luật được áp dụng khá rộng, thuộc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau chứ không giới hạn trong hệ thống thông luật như phương án 2. Điều này thể hiện được quyền tự do thỏa thuận của các bên và cũng phù hợp với thực tế của các bên khi thực hiện các giao dịch vốn rất đa dạng.
Đề nghị sử dụng phương án 1.
– Pháp luật áp dụng trong trường hợp trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam
Khoản 5 Điều 4 Dự thảo quy định “Pháp luật nước ngoài, án lệ nước ngoài, tập quán thương mại quốc tế không được áp dụng trong trường hợp hậu quả của việc áp dụng trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”. Quy định này đang không rõ, trong trường hợp này thì pháp luật nước nào sẽ được áp dụng? Đề nghị bổ sung quy định về vấn đề này để đảm bảo thuận lợi khi xác định luật áp dụng.
2. Thẩm phán Tòa án chuyên biệt (Điều 8)
Điều 8 Dự thảo đưa ra hai phương án:
– Phương án 1: Thẩm phán là công dân Việt Nam và người nước ngoài
– Phương án 2: Thẩm phán là công dân Việt Nam
Đề nghị chọn Phương án 1, bởi các lý do sau:
+ Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế là tổ chức của Tòa án nhân dân (khoản 1 Điều 4 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân sửa đổi năm 2025). Tòa án nhân dân là cơ quan tài phán, thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước để xét xử, vì vậy bổ nhiệm thẩm phán là người nước ngoài dường như chưa phù hợp với tính chất của tòa án nhân dân (đại diện cho nhân dân Việt Nam thực hiện quyền tư pháp).
+ Một trong những mục tiêu quan trọng khi bổ nhiệm thẩm phán là người nước ngoài tại Tòa án chuyên biệt là nhằm nâng cao chất lượng của thẩm phán. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều chuyên gia là công dân Việt Nam sinh sống và làm việc ở Việt Nam hoặc nước ngoài có thể đáp ứng các điều kiện về năng lực chuyên môn, am hiểu về các lĩnh vực kinh tế, đầu tư kinh doanh và có khả năng ngoại ngữ (tiếng Anh) tốt. Nếu xây dựng cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm thông thoáng thì nguồn nhân lực người Việt Nam này có thể đáp ứng cơ bản yêu cầu về điều kiện để được bổ nhiệm làm thẩm phán tại Tòa án chuyên biệt;
+ Ngay cả khi lựa chọn người nước ngoài làm thẩm phán tại Tòa án chuyên biệt cũng khó có thể đảm bảo người này có thể thông hiểu được tất cả các vấn đề pháp lý (trong nước hay nước ngoài) về thương mại, đầu tư kinh doanh. Để giải quyết vấn đề này, thông thường hoạt động xét xử tại các Tòa án quốc tế hay trọng tài quốc tế sẽ sử dụng cơ chế tham vấn chuyên gia trong các lĩnh vực tương ứng để nâng cao chất lượng xét xử. Việc có Hội đồng chuyên gia sẽ giúp tăng chính xác và hiệu quả trong xét xử và tạo cơ chế kiểm soát chất lượng chuyên môn một cách linh hoạt. Đây cũng là giải pháp được nhiều quốc gia áp dụng để cân bằng giữa yêu cầu chuyên môn cao và nguyên tắc pháp quyền quốc gia. Do đó, nếu có cơ chế tham vấn chuyên gia trước khi xét xử thì thẩm phán người Việt Nam hoàn toàn có thể đáp ứng được yêu cầu về năng lực, chất lượng chuyên môn. Đây cũng là động lực rất quan trọng để chúng ta phải đẩy nhanh hoạt động đào tạo, tuyển chọn thẩm phán có chất lượng, trước hết là trong lĩnh vực tài chính, thương mại quốc tế.
3. Thẩm quyền của Tòa án chuyên biệt (Điều 12)
Điều 12 Dự thảo đưa ra hai phương án về thẩm quyền của Tòa án chuyên biệt:
– Phương án 1: a) Tranh chấp, yêu cầu về đầu tư, kinh doanh giữa các thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với nhau hoặc giữa thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; b) Yêu cầu liên quan đến Tòa án nước ngoài, Trọng tài giải quyết tranh chấp giữa các thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với nhau hoặc giữa thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; c) Tranh chấp, yêu cầu khác liên quan đến hoạt động tại Trung tâm Tài chính quốc tế mà có ít nhất một bên là thành viên Trung tâm Tài chính quốc tế theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao;
– Phương án 2: a) Tranh chấp, yêu cầu về đầu tư, kinh doanh giữa các thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với nhau hoặc giữa thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; b) Tranh chấp giữa Thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với Cơ quan điều hành, Cơ quan giám sát của Trung tâm Tài chính quốc tế, Cơ quan hành chính nhà nước Việt Nam; c) Tranh chấp, yêu cầu về lao động giữa người sử dụng lao động là thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với người lao động; d) Yêu cầu liên quan đến việc Tòa án nước ngoài, Trọng tài giải quyết tranh chấp giữa các thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với nhau hoặc giữa thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; đ) Tranh chấp, yêu cầu khác liên quan đến hoạt động tại Trung tâm Tài chính quốc tế mà có ít nhất một bên là thành viên Trung tâm Tài chính quốc tế theo quy định của Tòa án nhân dân tối cao.
Phương án 1 là hợp lý và khả thi trong bối cảnh hiện nay, khi Tòa án chuyên biệt của Trung tâm tài chính mới được thành lập và đây là các chế định trước nay chưa từng có ở Việt Nam, còn rất mới mẻ. Tuy nhiên, khi lựa chọn Phương án 1, đề nghị cân nhắc, xem xét quy định thẩm quyền của Tòa án chuyên biệt tại điểm b “Yêu cầu liên quan đến Tòa án nước ngoài, Trọng tài giải quyết tranh chấp giữa các thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với nhau hoặc giữa thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”.
Quy định này liên quan đến thẩm quyền của Tòa án chuyên biệt đối với Trọng tài. Trong trọng tài quốc tế, các bên được tự do lựa chọn địa điểm trọng tài và việc lựa chọn địa điểm trọng tài sẽ xác định tòa án quốc gia có thẩm quyền đối với thủ tục trọng tài đó. Quy định tại điểm b khoản 1 của Phương án 1 có tính chất trao quyền cho Tòa án chuyên biệt tương tự như tòa án tại địa điểm trọng tài. Điều này sẽ xảy ra tình trạng xung đột nếu như các bên thỏa thuận trọng tài, trong đó không lựa chọn địa điểm trọng tài là Việt Nam. Có nghĩa, trong trường hợp này, thẩm quyền vừa thuộc Tòa án chuyên biệt (theo quy định tại điểm b khoản 1) vừa Tòa án tại địa điểm mà các bên lựa chọn cũng có thẩm quyền (theo nguyên tắc của thẩm quyền của trọng tài).
Để tránh tình trạng này, đề nghị điều chỉnh quy định trên theo hướng “yêu cầu liên quan đến Tòa án nước ngoài, việc trọng tài mà các bên lựa chọn địa điểm trọng tài là Việt Nam để giải quyết quyết tranh chấp giữa các thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với nhau hoặc giữa thành viên Trung tâm tài chính quốc tế với cơ quan, tổ chức, cá nhân khác”.
4. Tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án chuyên biệt (Điều 13)
Điều 13 Dự thảo đưa ra hai phương án:
– Phương án 1: Tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án chuyên biệt là tiếng Anh hoặc tiếng Anh kèm theo bản dịch tiếng Việt
– Phương án 2: Tiếng nói, chữ viết dùng trước Tòa án chuyên biệt là tiếng Anh, trừ các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này; trường hợp một trong các bên có yêu cầu thì kèm theo bản dịch tiếng Việt.
Việc xác định cứng ngôn ngữ sử dụng trước tòa tại Điều 13 Dự thảo là Tiếng Anh dường như hơi cứng nhắc. Các bên có thể thỏa thuận về ngôn ngữ, chữ viết được sử dụng trong giao dịch – phù hợp với tính chất tự quyết của các bên trong các giao dịch. Để đảm bảo về quyền lựa chọn của các bên trong tranh chấp, đề nghị cho phép các bên được tự do lựa chọn ngôn ngữ tranh tụng mà các bên cảm thấy phù hợp (có thể lựa chọn ngôn ngữ là tiếng Anh hoặc tiếng Việt hoặc song ngữ Anh Việt).
5. Thành phần xét xử sơ thẩm, phúc thẩm (Điều 14)
Điều 14 Dự thảo đưa ra hai phương án về sự tham gia của viện kiểm sát trong hoạt động kiểm soát:
– Phương án 1: không quy định kiểm soát việc tuân theo pháp luật của viện kiểm sát
– Phương án 2: quy định viện kiểm soát tham gia thực hiện hoạt động kiểm sát
Quy định theo hướng phương án 1 là hợp lý, vì phù hợp với mô hình tòa án trong Trung tâm tài chính quốc tế của các quốc gia trên thế giới.
6. Án phí, lệ phí, chi phí tố tụng tại Tòa án chuyên biệt (Điều 21)
Điều 21 Dự thảo đưa ra hai phương án về án phí, lệ phí, chi phí tố tụng tại Tòa án chuyên biệt. Phương án 1 không quy định cụ thể mà trao quyền cho Tòa án nhân dân tối cao quy định; Phương án 2: quy định cụ thể các mức, tỷ lệ án phí, lệ phí.
Cả hai phương án hiện tại đều có những hạn chế, chưa phản ánh đúng tính chất đặc thù của các tranh chấp phức tạp trong thị trường thương mại, đầu tư quốc tế, chưa giải quyết triệt để vấn đề minh bạch và dự đoán được chi phí tố tụng – yếu tố quan trọng trong môi trường pháp lý quốc tế.
Đề nghị xây dựng biểu phí tố tụng rõ ràng, công khai và cập nhật định kỳ, tham khảo từ mô hình của VIAC. Biểu phí cần tính đến tính chất phức tạp của tranh chấp đầu tư – tài chính quốc tế, đồng thời phản ánh đúng chi phí thực tế để tránh tình trạng phí quá thấp, ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ tư pháp. Có thể quy định theo hướng:
“Án phí, lệ phí được xác định theo biểu phí do Tòa án Nhân dân tối cao ban hành và công khai trên Cổng thông tin của Trung tâm tài chính. Các khoản phí này phải phản ánh đúng chi phí hợp lý để bảo đảm chất lượng xét xử.”
Trên đây là một số ý kiến của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Tòa án chuyên biệt tại Trung tâm tài chính quốc tế. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.
Website xây dựng pháp luật của VCCI