Tóm tắt các vấn đề phát sinh và kiến nghị liên quan tới Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và luật thuế giá trị gia tăng – Nguyễn Hữu Hoài Công ty RUSSIN & VECCHI

Thứ Hai 09:14 14-03-2011

Hội thảo về những vướng mắc về thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trong quá trình thực hiện Nghị định 123/2008/NĐ-CP và Nghị định 124/2008/NĐ-CP” ngày 11/3/2011 tại Tp.HCM do Bộ Tài Chính và VCCI phối hợp tổ chức.

 

TÓM TẮT CÁC VẤN ĐỀ PHÁT SINH VÀ KIẾN NGHỊ

LIÊN QUAN TỚI LUẬT THUẾ TNDN VÀ LUẬT THUẾ GTGT 

 

Nguyễn Hữu Hoài

Công ty RUSSIN & VECCHI

nhhoai@russinvecchi.com.vn

Tel: (84-8) 38243026

Fax: (84-8) 38243113

 

 

I.          VƯỚNG MẮC LIÊN QUAN TỚI THỰC HIỆN LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP (ưu đãi thuế đối với dự án đầu tư mở rộng)

  Các văn bản/điều luật liên quan:

 Điều 32 của Luật Đầu tư do Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ 01/07/2006 (“Luật Đầu tư”) có quy định về các ưu đãi đầu tư theo đó các ưu đãi đầu tư cũng áp dụng đối với dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi trường. 

 Tuy nhiên, Điểm 6 Phần I thông tư 130/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 26/12/2008 (“Thông tư 130”) lại quy định rằng “Doanh nghiệp đang hoạt động từ năm 2009 có dự án đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất mới, mở rộng quy mô, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng lực sản xuất thì phần thu nhập từ dự án đầu tư này sẽ không được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp”. 

  Khó khăn hiện nay:

 Khi xin giấy chứng nhận đầu tư, theo yêu cầu của cơ quan cấp phép nhà đầu tư phải cung cấp thông tin ước tính sản lượng sản phẩm mà mình sẽ sản xuất trong bộ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận đầu tư.  Do số liệu chỉ là ước tính và có thể có thay đổi, nên nhà đầu tư chỉ có thể ước tính dựa trên các yếu tố thị trường vào thời điểm xin giấy phép.  Số liệu sản lượng ước tính đã được ghi vào giấy chứng nhận đầu tư. 

Sau một thời gian hoạt động, các số liệu ước tính ban đầu đã không còn phản ảnh đúng tình hình thực tế và doanh nghiệp cần tăng sản lượng gấp đôi so với dự tính ban đầu. Tuy nhiên theo ngôn từ của thông tư 130 thì việc mở rộng quy mô sản xuất, tăng sản lượng sản xuất  (nhưng vẫn giữ nguyên dây chuyển sản xuất ban đầu) thì phần thu nhập từ phần tăng thêm tư dự án đầu tư “mở rộng” này vẫn có thể không còn được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo tinh thần của Luật Đầu tư.

  Ý kiến:

  Chính sách áp dụng ưu đãi đối với dự án đầu tư mở rộng trước đây cũng được áp dụng và quy định trong Luật đầu tư Nước ngoài và chính sách này vẫn được duy trì và quy định tại Luật Đầu tư sau này.

 Tuy nhiên Luật thuế thu nhập doanh nghiệp  và văn bản hướng dẫn (Thông tư 130) ban hành sau đã thay đổi chính sách này và theo đó các doanh nghiệp sẽ không được hưởng các ưu đãi đối với phần dự án mở rộng. Điều này gây ra những băn khoăn thắc mắc nhất là đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

 Thiết nghĩ ưu đãi đầu tư là một chính sách quan trọng đối với cả nhà nước và các nhà đầu tư nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển đất nước.  Các chính sách này cần phải được áp dụng nhất quán và tránh thay đổi để các doanh nghiệp trong và ngoài nước tin tưởng và yên tâm bỏ vốn đầu tư.  Khi thực sự cần thiết phải thay đổi chính sách ưu đãi thì cũng cần phải xem xét thoả đáng và hợp lý các quyền lợi của nhà đầu tư bị ảnh hưởng.

  Kiến nghị:

 Ưu đãi thuế cũng phải được áp dụng đối với phần dự án mở rộng của dự án đầu tư ban đầu.  Nếu vậy cần phải sửa Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp cho nhất quán với Luật đầu tư. 

Chúng tôi hiểu rằng việc điều chỉnh Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cần phải có thời gian và phải tuân thủ các quy trình thủ tục theo luật định, và phải được Quốc hội phê chuẩn.  Hiện tại, nếu chưa sửa được Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp thì Chính phủ và Bộ Tài xem xét điều chỉnh lại Nghị định và thông tư hướng dẫn.  Cụ thể, nếu không áp dụng chính sách ưu đãi đối với dự án đầu tư mở rộng thì cũng cần phải quy định rõ hơn thế nào là dự án đầu tư mở rộng  Dự án đầu tư mở rộng có thể là dự án hoàn toàn mới so với dự án ban đầu (ví dụ, đầu tư xây dựng một nhà máy mới tại địa bàn mới, đầu tư một dây chuyển sản suất mới  để sản xuất sản phẩm mới, mở rộng kinh doanh sang lĩnh  mới v.v.).  Việc tăng sản lượng sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất của dây chuyền hiện tại, và/hoặc việc mở rộng dây chuyền sản xuất hiện tại trên cùng một địa bàn của dự án hiện tại sẽ không coi là “dự án mở rộng” cho mục đích hưởng ưu đãi thuế.  Viều điều chỉnh có thể thực hiện thông qua việc điều chỉnh Thông tư 130 và Nghị định 124 mà không cần phải sửa Luật thuế Thu nhập Doanh nghiệp. 

 Các doanh nghiệp cũng mong Bộ Tài chính sớm sửa đổi các quy định hiện hành liên quan tới ưu đãi đầu tư sao cho hợp lý hơn, để các doanh nghiệp và cơ quan thuế địa phương có cơ sở thực hiện và cũng là để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước yên tâm đầu tư lâu dài tại Việt Nam.     

II.         VƯỚNG MẮC LIÊN QUAN TỚI THỰC HIỆN LUẬT THUẾ GTGT (Áp dụngy thuế suất thuế giá trị gia tăng (GTGT) 0% đối với dịch vụ xuất khẩu)   

Theo Luật Thuế GTGT hiện hành thì có ba loại thuế suất thuế GTGT: 10%, 5% và 0%.  Thuế suất thuế GTGT 0% áp dụng đối với dịch vụ xuất khẩu cung cấp cho tổ chức ở nước ngoài.  Các điều kiện áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% đối với dịch vụ xuất khẩu được quy định tại Thông tư 129/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính đề ngày 26/12/2008 (“Thông tư 129”). Theo quy định tại Phần B, Mục II của Thông tư 129, có ba điều kiện để áp dụng thuế suất GTGT 0% đó là: 

 (1)       Tổ chức ở nước ngoài là tổ chức nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, không phải là người nộp thuế GTGT tại Việt Nam;

(2)       Có hợp đồng cung ứng dịch vụ với tổ chức ở nước ngoài; và

(3)       Có chứng từ thanh tóan tiền dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng.

 Khái niệm “Cơ sở thường trú” như được định nghĩa trong thông tư 130/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 26/12/2008 là khá rộng. Thực tiễn cho thấy việc xác định một khách hàng (là tổ chức) có đáp ứng điều kiện (1) nêu trên hay không là rất khó đối với doanh nghiệp (và có lẽ cũng rất khó đối với cơ quan thuế). 

 Chúng tôi không rõ là nếu có một thư xác nhận từ khách hàng, xác nhận rằng khách hàng đó là đối tượng nộp thuế ở nước khác và khách hàng đó không có cơ sở thường trú ở Việt Nam, thì có đủ cơ sở để áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% hay không, tất nhiên là hai điều kiện (2) và (3) nêu trên đã được đáp ứng.  Nếu không được, thì kiến nghị Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn rõ và cụ thể hơn. 

 Chúng tôi mong sớm nhận được sự hướng dẫn của Quý Cơ quan về  vấn đề nêu trên để chúng tôi có cơ sở thi hành tốt Luật Thuế GTGT.

 

 

              

Các văn bản liên quan