PL chống cạnh tranh không lành mạnh lquan đến SHCN

Thứ Ba 15:32 30-05-2006
Về pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền sở hữu công nghiệp ở nước ta

Th.s Nguyễn Thanh Tâm

Đối tượng sở hửu công nghiệp (SHCN) là một yếu tố thể hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại, nên đã có không ít đối thủ cạnh tranh thực hiên hành vi cạnh tranh không lành mạnh làm xâm hại đến các đối tượng SHCN để thu lợi bất chính trong kinh doanh. Bên cạnh đó quyền sở hữu công nghiệp với tính độc quyền, có thể bị lạm dụng để cản trở thương mại. Để đối phó với các loại hành vi này, pháp luật phải thừa nhận cho các chủ thể kinh doanh quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới quyền SHCN, với tư cách là một nội dung của quyền SHCN.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ở mọi lĩnh vực kinh doanh , trong đó có lĩnh vực SHCN. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền SHCN giống hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung, bên cạnh đó nó còn có những biểu hiện tương đối riêng biệt. Cụ thể nó xâm hại đến các đối tượng SHCN. Chẵng hạn hành vi làm hàng nhái, hàng giả thông tin sai lệch tên gọi xuất xứ hàng hoá...Nếu một hành vi bị coi là cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền SHCN, thì nó sẽ vừa vi phạm pháp luật về cạnh tranh vừa vi phạm pháp luật về SHCN. Như vậy giữa quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và quyền SHCN có mối quan hệ nội tại, gắn bó chặt chẽ và trực tiếp ảnh hưởng đến nhau. Bên cạnh việc ngăn ngừa cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN, cần phải có cơ chế kiểm soát tình trạng độc quyền, với các biểu hiện đa dạng như: Hợp đồng licence độc quyền, ghi nhận các điều khoản cạnh tranh trong hợp đồng licence, vấn đề nhập khẩu song song..v..v

Trong lĩnh vực SHCN, pháp luật cạnh tranh thể hiện những mặt tích cực sau đây:

Thứ nhất: Các quy định của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền SHCN khá rõ ràng về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đạt độ tương thích với pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước, cụ thể:

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới Quyền SHCN được quy định dựa trên tiêu chí cuả điều 10 bis công ước pari (1883) và kinh nghiệm lập pháp của các nước. Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 3/10/2000 (gọi tắt là nghị định 54) quy định trực tiếp quyền bảo hộ việc chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới Quyền SHCN (điêù 25). Điều 24 NĐ 54 liệt kê các hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

1.Sử dụng các chỉ dẫn thương mại để làm sai lệch nhận thức và thông tin về chủ thể kinh doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh, hàng hoá, dịch vụ, nhằm mục đích: a) Lợi dụng uy tín, danh tiếng của người sản xuất kinh doanh khác trong sản xuất ,kinh doanh của mình
b) Làm thiệt hại uy tín, danh tiếng người sản xuất, kinh doanh của mình; c) Gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ về điều kiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ...cho người tiêu dùng trong quá trình nhận biết, lựa chọn hàng hoá, dịch vụ, hoặc hoạt động kinh doanh.

2.Chiếm đoạt, sử dụng thành quả đầu tư của người khác mà không được phép của người đó cho phép.

Thứ hai, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới Quyền SHCN đã chủ động tạo môi trường pháp luật để hạn chế tối đa hậu quả của các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khuyến khích các nhà kinh doanh đầu tư vào khoa học - công nghệ.

NĐ 54 quy định hành vi vi phạm bí mật thương mại là một trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, khuyến khích các nhà kinh doanh đầu tư vào khoa học - công nghệ.
NĐ 54 quy định về hành vi vi phạm bí mật thương mại là một trong các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới quyền SHCN đã chủ động tạo môi trường pháp luật để khuyến khích các nhà kinh doanh đầu tư vào khoa học - công nghệ, phát triển sản xuất, kinh doanh.

Thứ ba, pháp luật về kiểm soát độc quyền liên quan quyền SHCN đã tích cực bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, chống lại sự lạm dụng quyền SHCN. Việc bảo hộ quyền SHCN nhằm đảm bảo cho chủ sở hữu có vị trí độc quyền về sử dụng đối tượng SHCN, để bồi hoàn công sức cho họ và thu lợi nhuận. Như vậy xuất hiện mâu thuẫn giữa một bên là độc quyền cá nhân và một bên là nguyên tắc tự do cạnh tranh; nhu cầu của xã hội trong việc sử dụng đối tượng SHCN cho phát triển. Trong một số trường hợp nhất định, pháp luật phải giải quyết mâu thuẫn nói trên, nhất là khi chủ sở hữu lạm dụng độc quyền của mình để cản trở thương mại.

Điều 801 Bộ luật dân sự (1995) quy định quyền của người đã sử dụng trước sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp. Điều 803 Bộ luật dân sự (1995) quy định việc sử dụng các đối tượng SHCN vào mục đích phi thương mại và một số ngoại lệ khác. Trong lĩnh vực chuyển giao Quyền SHCN pháp luật về kiểm soát độc quyền nhằm vào mục đích chống laị sự lạm dụng ưu thế công nghệ của bên giao để áp đặt các điều kiện hạn chế thương mại bất hợp lý, đẩy bên nhận công nghệ vào thế cạnh tranh bất lợi. Pháp luật Việt Nam cấm ghi hàng loạt các điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng chuyển giao Quyền SHCN, chẳng hạn: điều khoản hạn chế quyền tự do của người được chuyển giao trong việc mua vật tư,thiét bị hoặc tuyển dụng lao động đơn giản; điều khoản ép buộc người được chuyển giao phải chấp nhận một sỗ hạn mức nhất định về quy mô sản xuất và số lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm, chỉ định đại lý tiêu thụ sản phẩm cho người được chuyển giao, cơ chế hoạt động và quan hệ giữa người được chuyển giao và các đại lý này...(điều 13 khoản 1-7 nghị định 45/1998/NĐ-CP ngày 1/7/1998). Để hạn chế một cách hữu hiệu các hợp đồng license độc quyền, một số nước trong đó có Việt Nam đưa ra quy định về license độc quyền, một số nước trong đó có Việt Nam đưa ra quy định về license bắt buộc. Pháp luật Việt Nam quy định về license không tự nguyện tại Điều 802 Bộ luật dân sự (1995). Tuy nhiên trong quan hệ thương mại với đối tác Hoa Kỳ, Việt Nam cam kết không được cho phép license không tự nguyện đối với nhãn hiệu hàng hoá, bố trí thiết kế mạch tích hợp (Điều 6-khoản 12 chương II Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ).

Một vấn đề tiếp theo trong pháp luật về kiểm soát độc quyền của Việt Nam - Pháp luật Việt Nam không có quy định về cấm nhập khẩu song song. Trong quá trình đàm phán Hiệp định Thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ, phía Hoa Kỳ đã yêu cầu đưa vấn đề “Quyền chống nhập khẩu song song” vào Hiệp định. Phía Việt Nam đã từ chối yêu cầu này. Theo Hiệp định của WTO về Quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Trips), không một quốc gia nào có nghĩa vụ phải cho phép hoặc ngăn cấm NK song song. Mỗi nước có thể đưa ra các quy tắc khác nhau về vấn đề này. Chẳng hạn, ở Ô-xtrây-lia, hầu hết các sản phẩm mang nhãn hiệu hàng hoá có thể được nhập khẩu song song, ngược lại sản phẩm được giữ bản quyền không được nhập khẩu song song, trừ các sản phảm ghi âm. Bất đồng về vấn đề NK song song đã được hai bên Việt Nam - Hoa Kỳ giải quyết bằng cách thoả hiệp việc diễn giải nội dung vấn đề này theo quan niệm luật quốc gia của mỗi bên tại Việt Nam hành vi nhập khẩu song song của chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ. Nhưng tại Hoa Kỳ thì ngược lại.

Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới Quyền SHCN còn thể hiện những mặt hạn chế sau đây:

Thứ nhất, quyền chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền liên quan tới Quyền SHCN được ghi nhận trong một vài văn bản pháp luật một cách rời rạc, mới chỉ mang tính nguyên tắc, chưa cụ thể, tính thực thi không cao, do đó chưa ngăn cản và xử lý có hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng gia tăng trong lĩnh vực SHCN.

Qua nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật cũng như thực trạng cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực SHCN cho thấy: Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày một nhiều hơn với những thủ đoạn tinh vi hơn. Một trong những nguyên nhân của vấn đề nêu trên là: hầu hết các quy định của pháp luật về cạnh tranh đều là các quy phạm nội dung ,và trong hệ thống pháp luật còn thiếu những quy phạm thủ tục, do đó không tạo ra một cơ chế hữu hiệu để đảm bỏ thi hành pháp luật cạnh tranh. Bên cạnh đó những chế tài dường như chưa đủ nghiêm khắc để làm tăng tính giáo dục, răn đe đối với những vi phạm loại này.

Thứ hai, trong các quy định pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới Quyền SHCN, còn thiếu các quy định điều chỉnh từng lĩnh vực cạnh tranh. Gần đây, trong các cơ quan có thẩm quyền mới ban hành một số văn bảnliên quan tới hoạt động kinh doanh xe máy, chẳng hạn: Quyết định147/2002/QĐ -TTg ngày 25 /10/2002 về cơ chế điều hành quản lý XNK, sản xuất, lắp ráp xe hai bánh gắn máy và phụ tùng, giai đoạn 2002-2005 và quyết định 01/2003/QĐ_BKHCN của bộ khoa học và công nghệ ban hành các quy định cụ thể về việc quản lý chất lượng và SHCN áp dụng cho xe máy, động cơ và phụ tùng xe máy được sản xuất, lắp ráp trong nước và NK. Đây là cơ sở pháp luật để đấu tranh với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, vi phạm Quyền SHCN trong các hoạt động NK, lắp ráp, sản xuất xe máy. Ngoài ra trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác còn thiếu vắng những quy định pháp luật theo kiểu này.

Thứ ba, pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới Quyền SHCN chưa bao quát hết các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có thể xảy ra trong thực tế.
ở các nước phát triển, hành vi sản xuất hàng hóa ‘thị trường xám’ bị coi là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Chẳng hạn trong trường hợp chủ thể quyền đặt hàng sản xuất với một số lượng hàng hóa xác định, và nhà sản xuất cố ý làm ra hàng hóa với số lượng nhiều hơn so với đặt hàng, rồi bán lựong hàng hóa dôi dư đó trên thị trường, thì hành vi đó gọi là hành vi sản xuất hàng hóa “thị trường xám”. Hành vi này gây thiệt hại cho chủ thể quyền, và thiệt hại trở nên nghiêm trọng nếu nhà sản xuất ở nước ngoài, sau đó lại bán hàng hóa “thị trường xám”, hàng hóa có chứa đựng Quyền SHCN, ở nước ngoài hoặc xuất khẩu ngược trở lại thị trường của chủ thể quyền. Hành vi nêu trên là hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến Quyền SHCN. Nếu hành vi này xảy ra ở VIệt Nam, thì các cơ quan thực thi khó có thể thấy cơ sở pháp luật để bảo vệ cho chủ thể quyền.

Thứ tư,
sự điều tiết quá rộng của nhà nước trong vấn đề cạnh tranh liên quan tới hợp đồng chuyển giao quyền SHCN có thể mâu thuẫn với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, ý kiến của cơ quan quản lý cho rằng, những điều khoản mà pháp luật Việt Nam quy định không được đưa vào hợp đồng chuyển giao công nghệ hoàn toàn phù hợp với những quy định của hợp đồng chuyển giao công nghệ mẫu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO), tương tự như pháp luật của các nước khác.

Các văn bản liên quan