Góp ý của Ông Cao Bá Khoát- Giám đốc Công ty K và Cộng sự

Thứ Sáu 14:33 22-02-2008


GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
VÀ THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP


Luật gia Cao Bá Khoát
Giám đốc Công ty TNHHTư vấn doanh nghiệp K và Cộng sự


Về Luật thuế giá trị gia tăng
 
1.     Tư duy thuế
 
Thuế giá trị gia tăng bản chất là thuế gián thu. Người chịu thuế là người tiêu dùng. Nhưng mức thuế suất lại áp dụng đồng đều. Đánh thuế vào người tiêu dùng mà không phân biệt mức thu nhập của người tiêu dùng là bất công bằng. Xét đến cùng thì thuế giá trị gia tăng cũng đánh vào thu nhập. Hơn nữa, trên thế giới hiện nay, có rất nhiều nước đã bãi bỏ thuế giá trị gia tăng vì thủ tục thực hiện rất phức tạp và chi phí tốn kém cho doanh nghiệp và cơ quan thuế.
 
Câu hỏi đặt ra là liệu có nên ban hành thuế giá trị gia tăng hay không trong khi ta đã có thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp. Ban hành luật thuế giá trị gia tăng liệu có quá nặng nề về thuế cho người dân hay không?
 
2.     Phương pháp loại trừ
 
Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi có tư duy hợp lý là dùng phương pháp loại trừ, không sử dụng phương pháp liệt kê. Điều này được thể hiện ở việc xác định hàng hoá, dịch vụ chịu thuế, xác định các loại thuế suất tương ứng với từng loại hàng hoá, dịch vụ và xác định phương pháp tính thuế tương ứng với từng loại đối tượng nộp thuế.
 
Theo quy định của Luật thì hàng hoá, dịch vụ chịu thuế là tất cả các loại hàng hoá dịch vụ trừ các loại hàng hoá dịch vụ quy định tại Điều 4.
 
Theo quy định của Luật thì thuế suất chung là 10%, trừ các loại hàng hoá dịch vụ chịu thuế suất 0% quy định tại Khoản 1 Điều 7 và các loại hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 5% quy định tại Khoản 2 Điều 7
 
Cũng theo quy định của Luật thì phương pháp tính thuế áp dụng cho người nộp thuế là phương pháp khấu trừ thuế, trừ phương pháp tính thuế trực tiếp trên giá trị gia tăng áp dụng cho người nộp thuế quy định tại Khoản 2 Điều 8
 
3.     Vấn đề hoàn thuế
 
Luật thuế giá trị gia tăng sửa đổi vẫn còn tư duy hoàn thuế. Đây là tư duy không còn hợp lý bởi vì hoàn thuế thì rõ ràng doanh nghiệp không phải nộp thuế nữa. Trên thực tế việc hoàn thuế đã gây nhiều rắc rối không đáng có cho doanh nghiệp và cơ quan thuế, thậm chí còn tạo ra kẽ hở cho việc buôn bán hoá đơn giá trị gia tăng
 
4.     Vấn đề huỷ hoá đơn
 
Luật cũng nên quy định rõ về quy chế huỷ hoá đơn. Bên phát hành hoá đơn có quyền huỷ hoá đơn mà không cần phải có xác nhận của bên nhận hoá đơn vì nhiều khi bên nhận hoá đơn giải thể không còn dấu để xác nhận. Cần phải quy định thêm về cơ chế doanh nghiệp tự phát hành hoá đơn giá trị gia tăng theo mẫu của Tổng cục thuế.
 
Về luật thuế thu nhập doanh nghiệp
 
1.     Tư duy thuế thu nhập doanh nghiệp
 
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sử dụng phương pháp liệt kê để xác định đối tượng nộp thuế. Phương pháp này vừa bỏ sót đối tượng nộp thuế, vừa dẫn đến việc đánh thuế trùng. Cho nên cần thay đổi tư duy xác định đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo đó, tư duy xác định đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là tư duy loại trừ.
 
Việc bỏ sót đối tượng nộp thuế được thể hiện như sau: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 của Luật thì: Đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư…. Câu hỏi được đặt ra là các doanh nghiệp không được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà lại được thành lập và hoạt động theo các luật chuyên ngành như Luật Chứng khoán, Luật Kinh doanh bảo hiểm thì có phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp không? (Bởi vì Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh).
 
Khoản 2 Điều 2 thì doanh nghiệp thành lập theo pháp luật nước ngoài vẫn phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp đối với những khoản thu nhập phát sinh trên lãnh thổ Việt Nam. Nhưng Khoản 1 Điều 2 lại xác định đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp không bao gồm các doanh nghiệp thành lập theo pháp luật nước ngoài. Vậy trong trường hợp này ai là người phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp?
 
Vì vậy, có thể định nghĩa đối tượng nộp thuế như sau: Tất cả các đối tượng có thu từ các nguồn thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp đều phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, trừ các đối tượng sau đây (những đối tượng cụ thể nào do Luật tự quy định)
 
Nguồn thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là tất cả các nguồn thu, trừ các trường hợp sau (các trường hợp cụ thể do Luật tự quy định)
 
2.     Đánh thuế trùng thể hiện ở chỗ
 
Theo quy định của Khoản 1 Điều 2 Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thì Doanh nghiệp tư nhân cũng là một đối tượng chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhưng theo quy định tại Luật thuế thu nhập cá nhân thì chủ doanh nghiệp tư nhân cũng là đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân. Như vậy, cùng một khối tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân (vì thu nhập của doanh nghiệp tư nhân cũng chính là thu nhập của chủ doanh nghiệp tư nhân) phải chịu hai loại thuế là thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân.
 
3.     Về chi phí hợp lý
 
Phải quy định khái niệm chi phí hợp lý rõ ràng hơn vì đây chính là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế. Có thể nói Luật thuế thu nhập doanh nghiệp chưa có khái niệm về chi phí hợp lý. Có thể định nghĩa chi phí hợp lý như sau: Các khoản chi phí hợp lý là toàn bộ các khoản chi phục vụ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có các đặc điểm quy định tại Điều … và không bao gồm các khoản chi quy định tại Điều …
 
4.     Về nơi nộp thuế
 
Về quy định nơi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại Điều 12, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã tạo ra cơ hội cho doanh nghiệp được nộp thuế ở nhiều nơi. Nhưng Luật lại áp dụng nguyên tắc phân bổ giữa nơi kinh doanh và nơi có trụ sở chính. Luật đi xa hơn nữa trong việc trao quyền cho doanh nghiệp tự chọn nơi nộp thuế vì cuối cùng thuế đề chảy về ngân sách nhà nước.
 
5.     Về thuế suất
 
Về thuế suất quy định tại Điều 10, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cần phải xem lại mức thuế 25% vì mức thuế này khá cao so với thế giới hiện nay. Nên giảm mức thuế suất vì hiện nay chúng ta đã ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân. Mức thuế 25% cộng với mức thuế thu nhập cá nhân thì quá cao.

Các văn bản liên quan