Góp ý của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Nguyệt Hường – TP Hà Nội

Thứ Tư 13:54 26-05-2010

Kính thưa Quốc hội,

Trước hết, tôi xin bày tỏ sự nhất trí với những nội dung Báo cáo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Tôi đặc biệt hoan nghênh việc chưa đưa nhà ở vào diện chịu thuế với 5 lý do mà tôi cho rằng rất thuyết phục nêu trong Báo cáo giải trình. Vì vậy, tôi cũng tán thành với tên gọi của dự thảo luật là Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp để đảm bảo thống nhất giữa tên gọi và nội dung của dự thảo luật. Để dự thảo luật này sát với thực tiễn cuộc sống hơn và hợp lý hơn. Tôi xin có một số ý kiến đóng góp như sau:

Thứ nhất, về đối tượng chịu thuế. Khoản 2, Điều 2 của dự thảo luật đã nêu chi tiết các loại đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Tôi đề nghị xem lại việc liệt kê này đã hoàn toàn đầy đủ và chính xác chưa. Tôi cho rằng đất sử dụng cho việc khai thác, chế biến khoáng sản, đất sản xuất vật liệu xây dựng, đồ làm gốm về tính chất sử dụng sẽ khác biệt so với đất xây dựng khu công nghiệp, đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, bởi vì những chủ sử dụng đất để khai thác khoáng sản làm gốm và làm vật liệu xây dựng sẽ sử dụng chính đất đai làm nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất kinh doanh của mình. Vì vậy, đất đai không bao giờ được hoàn trả nguyên trạng khi hết thời hạn thuê. Nói cách khác đất đai trong trường hợp này chính là tài nguyên, do đó nếu quy định chung một dạng áp dụng chung một mức thuế là 0,03% thì sẽ không công bằng.

Thứ hai, về người nộp thuế nêu tại Điều 4. Tôi đề nghị quy định rõ hơn về nội dung của Khoản 2, Điều 4 vì trên thực tế có nhiều trường hợp các hộ gia đình chưa được cấp sổ đỏ cho mảnh đất của mình, nhưng lại cho người khác mượn hay sử dụng dài hạn. Vì vậy, người sử dụng đất trong trường hợp này chính là người đi mượn đất hay ở nhờ. Nếu quy định những đối tượng này là người nộp thuế thì sẽ gây ra tranh chấp pháp lý và việc cấp sổ đỏ cho người có đất sẽ trở lên vô cùng phức tạp. Bởi vì một trong những điều kiện để được cấp sổ đỏ là chủ sử dụng đất phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước. Tại Mục b, Khoản 3, Điều 4, tôi đề nghị thêm cụm từ "hoặc cho thuê lại đất có cơ sở hạ tầng"và viết lại là trường hợp người có quyền sử dụng đất cho thuê đất hoặc cho thuê lại đất có cơ sở hạ tầng theo hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế thì người nộp thuế sẽ được quy định trong hợp đồng để phù hợp với đối tượng là khu công nghiệp, nơi mà chủ đầu tư khu công nghiệp có quyền cho thuê lại đất có cơ sở hạ tầng theo hợp đồng thuê lại đất đối với nhà đầu tư thứ phát.

Về giá tính thuế nêu tại Điều 6, Mục a, Khoản 1, Điều 6 quy định diện tích đất tính thuế là diện tích đất thực tế đang sử dụng. Tôi cho rằng đối với đất ở thì quy định như vậy sẽ có mặt được và chưa được. Mặt được đó là chúng ta có thể thu thêm một phần thuế với tỷ lệ cao hơn đối với diện tích đất lấn chiếm. Tuy nhiên, mặt chưa được là quy định như vậy sẽ dễ nảy sinh cơ chế xin, cho. Bởi việc xác định diện tích đất lấn chiếm này hoàn toàn do cán bộ và người dân có thể tự thỏa thuận. Mặt khác nó có thể làm cho người dân hiểu rằng việc đóng một mức thuế cao gấp 5 lần trong hạn mức sẽ giúp những đối tượng lấn chiếm duy trì tình trạng lấn chiếm một cách hợp pháp. Vì vậy, tôi đề nghị trong dự thảo Luật cũng nên quy định cụ thể về việc phải thu hồi đất lấn chiếm này, thời gian xử lý đất lấn chiếm để tránh những phát sinh tranh chấp khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo của người dân trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai ngay tại cơ sở.

Đối với đất khu công nghiệp, tôi đề nghị giải thích rõ diện tích đất thực tế sử dụng trong khu công nghiệp được hiểu như thế nào? Theo quy định hiện hành thì tỷ lệ sử dụng hoặc được phép xây dựng, được cho thuê lại cho khu công nghiệp chỉ chiếm khoảng 60-70% tổng diện tích đất thuê của toàn khu, 30-40% diện tích còn lại là diện tích đất cây xanh, đất giao thông, đất xây dựng cơ sở hạ tầng để dùng chung trong khu công nghiệp. Theo quy định hiện hành của Luật đất đai và các nghị định hướng dẫn thi hành thì diện tích đất này được miễn tiền thuê đất. Vậy thuế sử dụng đất phi nông nghiệp có áp dụng cho diện tích chung này không?

Về thuế suất nêu tại Điều 7. Khoản 4, Điều 7 quy định riêng đối với đất sử dụng không đúng mục đích, đất chưa sử dụng theo đúng quy định áp dụng mức thuế suất là 0,1%. Tôi cho rằng đối với đất sử dụng không đúng mục đích thì trong mọi trường hợp chúng ta không thể dùng mức thuế suất cao để giúp duy trì việc sử dụng đất không đúng mục đích. Tại Hà Nội cũng đã có một ví dụ hết sức điển hình, đó là một doanh nghiệp thuê đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, nhưng lại dùng mặt bằng sản xuất này để xây dựng biệt thự và nhà vườn. Hà Nội đã xử lý một cách rất nghiêm minh doanh nghiệp này.

Đối với các khu công nghiệp, tại các khu công nghiệp có nhiều dự án phải phân kỳ đầu tư, nên ngay một lúc chủ đầu tư sẽ không thể xây dựng nhà xưởng, hoạt động sản xuất kinh doanh trên toàn bộ diện tích đất thuê lại được. Nếu chúng ta áp dụng thuế suất 0,1% cho diện tích đất chưa được xây dựng ngay trong thời gian mà chủ đầu tư đã đăng ký phân kỳ đầu tư thì tôi cho rằng sẽ không công bằng và sẽ thiếu khuyến khích doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh.

Trên đây là một vài ý kiến đóng góp cho dự thảo luật của tôi. Xin cảm ơn Quốc hội.

Các văn bản liên quan