VCCI_Góp ý về Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 113/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Hóa chất

Thứ Năm 14:55 19-08-2021

Kính gửi: Cục Hóa chất, Bộ Công Thương

Trả lời Công văn số 4008/BCT-HC của Bộ Công Thương đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 113/2017/NĐ-CP ngày 09/10/2017 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hóa chất (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến sơ bộ ban đầu như sau:

  1. Khai báo hóa chất nhập khẩu (khoản 15 Điều 1 Dự thảo bổ sung khoản 4a sau khoản 4 Điều 27 Nghị định 113/2017/NĐ-CP)

Theo quy định hiện hành, tổ chức, cá nhân nhập khẩu hóa chất phải thực hiện khai báo hóa chất nhập khẩu thông qua Cổng thông tin một cửa quốc gia và Bộ Công Thương sẽ phản hồi thông tin. Thông tin phản hồi được xem là bằng chứng xác nhận hoàn thành khai báo hóa chất, làm cơ sở để các tổ chức, cá nhân hoạt động liên quan làm thủ tục hải quan.

Dự thảo bổ sung quy định phê duyệt hồ sơ đối với thủ tục khai báo hóa chất nhập khẩu nguy hiểm cần được kiểm soát (dinitơ oxit, xyanua và các hợp chất của xyanua, thủy ngân và các hợp chất của thủy ngân). Đây là một dạng thủ tục tương tự như cấp phép và cần được cân nhắc, xem xét ở một số điểm sau:

  • Tạo gánh nặng về thủ tục hành chính: “Dinitơ oxit, xyanua và các hợp chất của xyanua, thủy ngân và các hợp chất của thủy ngân” là các hóa chất thuộc Danh mục hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực công nghiệp tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định 113/2017/NĐ-CP, có nghĩa các tổ chức, cá nhân nhập khẩu các hóa chất này phải có Giấy phép sản xuất, kinh doanh hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp (sau đây gọi tắt là giấy phép kinh doanh hóa chất hạn chế). Theo đó, doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh hóa chất hạn chế có quyền được nhập khẩu hóa chất này để phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình. Và Nhà nước thông qua cơ chế cấp phép kinh doanh đã kiểm soát hoạt động kinh doanh, nhập khẩu loại hóa chất này của các chủ thể được cấp phép (dưới góc độ các chủ thể nhập khẩu đủ điều kiện an toàn để kinh doanh loại hàng hóa nguy hiểm này).

Việc khai báo thông tin hóa chất nhập khẩu được thiết kế có tính chất như cấp phép nhập khẩu (doanh nghiệp nộp hồ sơ, cơ quan nhà nước sẽ xem xét hồ sơ và phê duyệt, xác nhận mới được phép nhập khẩu) sẽ khiến cho doanh nghiệp phải xin hai lần giấy phép mới được phép nhập khẩu loại hàng hóa này (giấy phép kinh doanh hóa chất hạn chế và phê duyệt hồ sơ khai báo thông tin nhập khẩu). Điều này tạo gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp, trong khi xét về mục tiêu quản lý, Nhà nước đã có thể quản lý thông qua cấp giấy phép kinh doanh hóa chất hạn chế.

Mặt khác, khoản 14 Điều 1 Dự thảo cũng đã bổ sung quy định khi khai báo thông tin nhập khẩu doanh nghiệp phải cung cấp “Bản sao Giấy phép kinh doanh hóa chất trong lĩnh vực công nghiệp trong trường hợp tổ chức, cá nhân khai báo hóa chất hạn chế sản xuất kinh doanh để kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp” quy định này có thể kiểm soát được việc doanh nghiệp nhập khẩu có quyền nhập khẩu hóa chất hạn chế hay không.

  • Tính nhất quán: Các hóa chất thuộc Danh mục hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực công nghiệp sẽ chịu sự kiểm soát, quản lý tương tự nhau. Việc đặt ra kiểm soát đặc biệt đối với các hóa chất “dinitơ oxit, và các hợp chất của xyanua, thủy ngân và các hợp chất của thủy ngân” sẽ tạo ra sự thiếu nhất quán trong chính sách quản lý đối với các hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh có điều kiện trong lĩnh vực công nghiệp.

Việc thiết kế quy định khai báo hóa chất nhập khẩu theo hướng tự động như quy định tại Điều 27 Nghị định 113/2017/NĐ-CP đã tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp nhập khẩu về mặt thủ tục. Việc quản lý chặt chẽ đối với hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh là cần thiết, tuy nhiên cần đánh giá tác động kĩ càng đối với việc bổ sung thêm cơ chế quản lý theo hướng gia tăng thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, trong khi mục tiêu quản lý nhà nước lại có thể đạt được thông qua các biện pháp quản lý khác.

Trong Báo cáo đánh giá tác động, cơ quan chủ trì soạn thảo chưa đưa ra các thông tin về mặt thực tiễn đối với những nguy cơ gây mất an toàn đối với việc nhập khẩu các loại hóa chất là “dinitơ oxit, các hợp chất xyanua, các hợp chất thủy ngân nhập khẩu” đến mức buộc phải bổ sung thêm cơ chế quản lý chặt chẽ hơn đối với các loại hóa chất này (cần bổ sung về số liệu vi phạm về việc nhập khẩu các loại hóa chất này và chứng minh việc khai báo nhập khẩu theo quy định hiện hành là không thể kiểm soát được).

Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định tại khoản 15 Điều 1 Dự thảo, trong trường hợp có lý do thuyết phục để giữ lại quy định này, cần giải trình thêm các vấn đề được nêu ở trên.

  1. Thời hạn của Giấy phép sản xuất, kinh doanh hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp

Khoản 8 Điều 1 Dự thảo bổ sung quy định về thời hạn của Giấy phép này là 05 năm. Quy định này là phù hợp với Luật Hóa chất 2007.

Việc quy định thời hạn của giấy phép kinh doanh sẽ tác động đến việc thực hiện thủ tục hành chính của doanh nghiệp. Thời hạn càng ngắn thì doanh nghiệp phải thực hiện càng nhiều thủ tục, điều này cũng ảnh hưởng đến sự ổn định trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp.

Nghị định 113/2017/NĐ-CP không quy định thời hạn của giấy phép, biện pháp quản lý là hậu kiểm và Báo cáo đánh giá tác động cũng không đánh giá tác động rõ ràng về những nguy cơ tác động tiêu cực về mặt quản lý nhà nước của việc không quy định này ngoài không đảm bảo tính thống nhất với Luật.

Vì vậy, vừa đảm bảo tính thống nhất với Luật vừa tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo quy định thời hạn của Giấy phép dài hơn so với đề xuất (ví dụ: 10 năm). Đồng thời bổ sung các quy định kèm theo, cụ thể: việc gia hạn giấy phép, các thủ tục liên quan đến gia hạn giấy phép.

  1. Một số quy định tại Nghị định 113/2017/NĐ-CP cần được sửa đổi

Dự thảo đã có nhiều quy định có tính cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Điều này cho thấy tinh thần cải cách, cầu thị của cơ quan chủ trì soạn thảo. Để thúc đẩy hơn nữa tinh thần này, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung thêm một số quy định sửa đổi các quy định sau tại Nghị định 113/2017/NĐ-CP:

  • Trình tự, thủ tục cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất công nghiệp

Điều 12 Nghị định 113/2017/NĐ-CP quy định về hồ sơ, trình tự thủ tục cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất công nghiệp, trong đó doanh nghiệp phải cung cấp “Báo cáo về tình hình xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán và sử dụng tiền chất công nghiệp của Giấy phép đã được cấp gần nhất đối với tiền chất công nghiệp Nhóm 1”. Quy định tại Nghị định 113/2017/NĐ-CP là không rõ về tiêu chí của cơ quan cấp phép. Cơ quan cấp phép sẽ xem xét và hoặc căn cứ vào tiêu chí nào để cấp phép hoặc từ chối cấp phép? Tình hình về xuất khẩu, nhập khẩu, mua bán và sử dụng tiền chất công nghiệp của Giấy phép đã được cấp gần nhất có ảnh hưởng như thế nào đến việc xem xét cấp phép cho giấy phép tiếp theo? Cơ quan nhà nước sẽ xem xét nội dung gì ở Báo cáo này để quyết định?

Tóm lại, việc thiếu rõ ràng trong tiêu chí cấp phép sẽ khiến cho quy trình này trở nên chưa minh bạch, do đó đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định về căn cứ cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét để cấp Giấy phép xuất khẩu, nhập khẩu tiền chất công nghiệp.

  • Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp (khoản 2 Điều 16 Nghị định 113/2017/NĐ-CP)

Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 16 Nghị định113/2017/NĐ-CP thì trong hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh phải có “Bản giải trình kế hoạch kinh doanh hóa chất hạn chế sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá nhân đăng ký cấp Giấy phép”.

Đây là tài liệu không thể hiện hình thức của điều kiện kinh doanh nào quy định tại khoản 2, 3 Điều 15, khoản 2 Điều 9 Nghị định 113/2017/NĐ-CP, vì vậy quy định tài liệu này trong hồ sơ xin cấp phép là chưa phù hợp. Mặt khác, không rõ cơ quan cấp phép sẽ thẩm định nội dung gì ở tài liệu này. Liên quan đến quy mô, chủng loại hóa chất kinh doanh thì doanh nghiệp đã phải cung cấp các tài liệu để chứng minh có thể sản xuất được các loại hóa chất này một cách an toàn. Do đó, việc yêu cầu phải có “Bản giải trình kế hoạch kinh doanh” vừa chưa đảm bảo tính thống nhất trong chính các quy định của Nghị định 113/2017/NĐ-CP vừa chưa đảm bảo tính hợp lý và minh bạch. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định này trong Dự thảo.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 113/2017/NĐ-CP ngày 09/10/2017 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Hóa chất. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.