Đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa – Vũ Quốc Tuấn – Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam

Thứ Hai 14:00 19-05-2008
Đất cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
 
(Tham luận tại Hội thảo góp ý kiến sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2003,
Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, Hà Nội, ngày 19-5-2003) 
  
  
  Vũ Quốc Tuấn 
  Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Việt Nam
 
Thị trường đất đai là một thị trường quan trọng ở nước ta song đang phát triển thiếu lành mạnh, nếu không nói là quá rối ren. Việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai là một việc cần làm nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với thị trường này bảo đảm cho thị trường vận hành theo đúng quy luật. Đây là một vấn đề có phạm vi rất rộng; dưới đây, theo gợi ý của Ban Tổ chức, chỉ xin phát biểu một số ý kiến cần được quan tâm trong Luật Đất đai nhằm giải quyết tốt nhu cầu về đất đai làm mặt bằng cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trong đó có các doanh nghiệp làng nghề ở nước ta hiện nay
 
Thực trạng.
 
1. Trước tiên, xin được nêu lên một số suy nghĩ về thị trường đất đai ở nước ta. Phải chăng, trong một thời gian dài, đã có những quan niệm không đúng về vại trò đặc biệt quan trọng của đất đai trong công cuộc phát triển kinh tế của đất nước; không công nhận giá trị của đất đai cũng như không công nhận thị trường đất đai ? Luật Đất đai năm 2003 mặc dù đã dùng những khái niệm như “giá đất”, “giá trị quyền sử dụng đất”, nhưng vẫn còn nhiều lúng túng khi xử lý các chính sách cụ thể trong thực tiễn.
 
Thực tế cho thấy nếu đất đai không được coi là hàng hóa, được huy động như một nguồn vốn (tư bản), thì đó là sự lãng phí nghiêm trọng một nguồn tài sản to lớn của đất nước. Hơn nữa, nếu không được đưa ra thị trường, đối xử bằng các phương pháp của thị trường, trước hết là công khai, minh bạch, thì các giao dịch sẽ đi vào con dường "ngầm", thường được gọi là "thị trường ngầm" tức là các giao dịch mua, bán ngầm giữa dân với nhau, thông qua "chợ đen", qua giấy viết tay, ngoài vòng kiểm soát của pháp luật (Có người nói: thị truờng ngầm về đất đai tại Tp HCM chiếm đến 70 % luợng giao dịch chính thức). Chính vì vậy, từ nông nghiệp đi lên công nghiệp hóa, nước ta phải có chính sách phát huy giá trị của đất đai, biến giá trị to lớn này thành vốn cho phát triển.
 
Trong nhiều năm qua, việc không thừa nhận thị trường đất đai cũng như những khuyết điểm, yếu kém trong quản lý nhà nước về đất đai đã dẫn đến những tác hại quá lớn cho đất nước. Đất đai được quy định là “thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu”, nhưng trên thực tế, hình như là vô chủ, đang bị sâu xé, mất mát. Đó là: dân mất tài sản – đất đai là loại tài sản quý giá nhất (vào túi nhà đầu cơ, một số người có chức, có quyền); Nhà nước mất thuế, hiệu lực quản lý của Nhà nước bị vô hiệu hóa; Đảng và Nhà nước mất cán bộ (cán bộ các cấp tham nhũng đất đai, bị tù tội), v.v... Phải chăng đất đang có một cuộc “phân chia lại ruộng đất ở nông thôn” mà nông dân là người chịu thiệt thòi nhiều nhất, người hưởng lợi bất chính lớn nhất là những kẻ đầu cơ và người có chức có quyền trong bộ máy lãnh đạo và quản lý. Người ta ngang nhiên chia chác đất cho nhau, kể cả dùng đất làm “lễ vật” để cúng biếu cấp trên và “làm ngoại giao”. Bao nhiêu khu công nghiệp ở những địa điểm là không hợp lý và bao nhiêu khu công nghiệp chưa được lấp đầy 50% ? Nhiều khu đất đang trồng lúa lúa bị thu hồi ròi để hoang hóa hàng năm, lãng phí lớn, trong khi nông dân không có đất canh tác. Đó là những cái mất lớn nhất, những bức xúc lớn nhất trong dân và doanh nghiệp cần được mổ xẻ, phân tích thấu đáo, chỉ rõ nguyên nhân và quy trách nhiệm sòng phẳng.1.
 
Luật Đất đai năm 2003, sau gần bốn năm thực hiện, đã có những tác dụng quan trọng như Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường về tình hình thi hành Luật Đất đai (Dự thảo ngày 8-4-2008) đã phân tích. Tuy nhiên, từ những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, đáng ra, Báo cáo nên phân tích sâu sắc hơn, nói rõ nguyên nhân và trách nhiệm, nói rõ phần nào là do chính sách, phần nào là do tổ chức thực hiện; trong phần nguyên nhân do chính sách, cũng cần nói rõ trách nhiệm của cơ quan nào, v.v... không nên chỉ nói tình hình mà không phân tích sâu sắc nguyên nhân và trách nhiệm.
 
Trước tình hình này, việc nghiên cứu bổ sung, sửa đổi Luật Đất đai 2003 là rất cần thiết. Điều chúng tôi muốn nhấn mạnh là trong việc này, nếu không dựa trên những quan điểm cơ bản về thị trường đất đai, không tạo thuận lợi lớn nhất cho dân và doanh nghiệp, xóa bỏ những đặc quyền, đặc lợi, đồng thời có sự tổ chức thực hiện Luật một cách nghiêm túc từ trên xuống dưới thì Luật sẽ bị lạc hậu trước cuộc sống và những rối ren về đất đai cũng sẽ không được khắc phục.
 
2. Đối với DNNVV, mặc dù đã có nhiều văn bản khẳng định vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của loại hình doanh nghiệp này trong công cuộc phát triển đất nước, song trong thực tế, DNNVV vẫn đang là thành phần chịu thiệt thòi nhiều nhất trong việc thụ hưởng các chính sách của Đảng và Nhà nước đối với doanh nghiệp; vẫn còn những sự phân biệt đối xử đối với DNNVV (chủ yếu là thuộc kinh tế tư nhân) trong nhiều lĩnh vực, như trong việc thuê đất làm mặt bằng cho sản xuất, trong việc vay vốn, trong việc xúc tiến thương mại, v.v...
 
Riêng về đất cho sản xuất, lâu nay, DNNVV (trong đó có doanh nghiệp làng nghề) giải quyết nhu cầu mặt bằng cho sản xuất bằng nhiều cách. (i) phần nhiều là dùng ngay nhà mình làm cơ sở sản xuất (đây là tình hình phổ biến nhất hiện nay trong các làng nghề, nhưng cũng chính vì thế, những ngành sản xuất gây ra ô nhiễm đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường của nhân dân trong vùng đang rất khó xử lý); (ii) hoặc thuê, mua của hộ gia đình hoặc cá nhân ở địa phương (nhưng khó khăn lớn nhất là giá thuê đất và việc đền bù, giải phóng mặt bằng); (iii) thuê lại đất của doanh nghiệp njhà nước hoặc cơ quan nhà nước (giá cao, thời hạn không chắc chắn) và (iv) vào các khu, cụm công nghiệp (nhưng chỉ có một số rất ít DNNVV vào được các khu này, vì chi phí cao, khó vào), v.v... Đất cho sản xuất vẫn là một khó khăn lớn nhất của DNNVV hiện nay.   Một số kiến nghị
 
Như trên đã nói, việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2003 lần này phải có một bước tiến cơ bản, nhằm vào tháo gỡ những rối ren, lúng túng hiện nay để thị trường đất đai vận hành theo đúng các quy luật của thị trường. Sự quản lý của Nhà nước là rất cần thiết và cần được tăng cường cả về khung pháp lý cũng như về lực lượng, phương tiện ... nhưng cũng phải theo mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất nguồn vốn đất đai quý giá của đất nước; công tác quản lý phải tạo thuận lợi cho dân và doanh nghiệp sinh sống và kinh doanh, phải sử dụng các công cụ của thị trường, chỉ dùng biện pháp hành chính ở mức cần thiết và trong những trường hợp cần thiết, không nên lạm dụng các biện pháp hành chính làm méo mó thị trường, gây ra cạnh tranh không lành mạnh.
 
Xin nói thêm rằng ở Việt Nam hiện nay, nếu như khẳng định công bằng xã hội như một định hướng phát triển đất nước, trong đó mọi người đều có cơ hội tiếp cận một cách công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực phát triển ... , thì phải nói đến một nội dung rất quan trọng, đó là sự công bằng trong việc tiếp cận đất đai như là một loại tư liệu sản xuất chủ yếu, một nguồn lực phát triển chủ yếu; vì vậy, không thể có sự bất công trong việc sử dụng đất đai, đưa đến có những kẻ dùng thủ đoạn thu gom đất đai, làm giàu bất chính. Cần khẳng định rằng trong tình hình hiện nay việc ổn định thị trường đất đai là một nhân tố quyết định ổn định xã hội, góp phần vào bảo đảm sự phát triển bền vững của đất nước.
 
Bản “Dự kiến một số nội dung sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai năm 2003” đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chuẩn bị công phu, nêu lên được nhiều nội dung mới phù hợp với thực tế. Dưới đây, xin kiến nghị một số nội dung cụ thể.
a) Về quy hoạch sử dụng đất. Phải chăng công tác quy hoạch sử dụng đất đang là một khâu yếu kém nhất trong toàn bộ các khâu của chính sách sử dụng đất đai hiện nay? Theo chúng tôi, quy hoạch phải bảo đảm sử dụng quỹ đất một cách tiết kiệm, đạt hiệu quả cao nhất, chú trọng các mối quan hệ như: (i) phát triển không gian hợp lý giữa phát triển đô thị và phát triển nông thôn; (ii) vừa bảo đảm đất cho công nghiệp hóa, lại vừa giữ được đất trồng lúa, bảo đảm an ninh lương thực; (iii) vừa sử dụng đất cho nhu cầu phát triển lại vừa không để đất bị thoái hóa, suy giảm chất lượng, không vì lợi ích trước mắt mà gây thiệt hại lớn cho đời sau, v.v...? Cấp bách trước mắt phải chăng là thu hồi ngay những diện tích đất mà các doanh nghiệp, tổ chức nhà nước đang nắm giữ song sử dụng không hiệu quả hoặc cho thuê để thu lợi riêng; đồng thời có biện pháp kiên quyết thu hồi ngay những khu đất đã bị bọn tham nhũng lợi dụng quy hoạch để chiếm đoạt.
 
Điều 21 đến Điều 26 của Bản “Dự kiến” đã quy định nhiều vấn đề về nội dung quy hoạch sử dụng đất của các cấp và thẩm quyền xét duyệt quy hoạch, song điều quan trọng là làm thế nào để tất cả các quy hoạch của các cấp và của các ngành (nhất là đất đai và xây dựng) đều thống nhất nhằm một mục tiêu chung bảo đảm cơ cấu kinh tế của cả nước, không thể quy hoạch theo địa phương. gây ra tình trạng manh mún. Quy hoạch của một tỉnh/thành phố không thể là số cộng đơn thuần của các huyện, xã lên. Quy hoạch của cả nước cũng vậy, không thể chỉ là số cộng đơn thuần của quy hoạch các tỉnh, thành phố mà nhất thiết phải bảo đảm cơ cấu kinh tế phục vụ cho sự phát triển bền vững của đất nước. Khoản 3 Điều 21 “Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp trên phải thể hiện nhu cầu sử dụng đất của cấp dưới” là thế nào? Có lẽ phải nói ngược lại “ Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp dưới phải tuân theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp trên”; nếu không thì đất đai sẽ bị băm nát, không thể hình thành được cơ cấu kinh tế như mong muốn. Một vấn đề nóng hổi cần được giải thích: phải chăng UBND tỉnh có quyền cho phép xây dựng doanh nghiệp hoặc KCN trên đất “bờ xôi ruộng mật”như đã và đang xảy ra ở khá nhiều đại phương miền Bắc; hoăc như chỉ riêng sáu địa phương miền Nam đã có 34 dự án đầu tư vào sân gôn với diện tích hơn 13.000 hécta đã được cấp phép và chấp thuận đầu tư; vậy cơ quan trung ương nào có quyền cho phép hoặc ngăn chặn trường hợp này?
 
Đối với DNNVV, trong đó có các doanh nghiệp làng nghề, yêu cầu cấp bách nhất hiện nay là có đất đai làm mặt bằng sản xuất kinh doanh phù hợp với yêu cầu duy trì và mở rộng sản xuất; quy hoạch sử dụng đất cần thật cụ thể, ổn định để doanh nghiệp có cơ sở tính toán việc thuê đất vào vị trí thuận tiện cho sản xuất, kinh doanh. Theo khảo sát của chúng tôi, đến nay, phần lớn diện tích đất đai ở vị trí thuận lợi đã được giao cho các dự án, lập các khu, cụm  công nghiệp, giá đất đã cao, chi phí san lấp, xây dựng kết cấu hạ tầng rất lớn, cho nên các DNNVV không thể thuê lại mặt bằng ở các khu, cụm công nghiệp được. Song cấp đất cho DNNVV ở những vùng lẫn với dân cư cũng không được, nhất là doanh nghiệp làng nghề, vì gây ra ô nhiễm môi trường (hiện nay đã đang rất nghiêm trọng). Vì vậy, để giải quyết mặt bằng cho các DNNVV hiện nay, cần có chính sách trợ giúp về sử dụng kết cấu hạ tầng và giải quyết môi trường cho doanh nghiệp để có thể thuê mặt bằng ở các khu, cụm công nghiệp đã có; hoặc Nhà nước đầu tư xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho làng nghề, chịu chi phí xây dựng kết cấu hạ tầng, để DNNVV có thể thuê đất với giá thấp nhất.
 
Đối với doanh nghiệp các làng nghề nông thôn, cùng với việc quy hoạch đất sử dụng vào sản xuất, các địa phương rất cần chú ý quy hoạch một diện tích đất cần thiết để trồng các cây làm nguyên  liệu cho sản xuất (ở ta hiện nay, đang rất thiếu nguyên liệu như mây, tre, gỗ vẫn phải nhập khẩu cho sản xuất thủ công mỹ nghệ tại các làng nghề).
 
Nguyên tắc “Dân chủ, công khai” trong khoản 7 Điều 24 cần được quy định rõ về nội dung và trách nhiệm thực hiện. Thực tế cho thấy quy hoạch cần được công bố công khai, minh bạch; được tổ chức thực hiện đúng đắn, khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”, gây ra tình trạng đời sống của dân và kinh doanh của doanh nghiệp cũng bị “treo” luôn cùng quy hoạch. Khắc phục tình trạng tùy tiện sửa đổi, thậm chí “uốn nắn” chỉ giới quy hoạch có lợi cho những người có chức có quyền như đã xảy ra.
 
b) Đề nghị mở rộng thêm hạn mức giao đất nông nghiệp. Nghị quyết Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 1126/2007 đã quy định: đối với cây hàng năm không quá 04 hécta và 06 hécta; đối với cây lâu năm không quá 20 hécta và 50 hécta. Hạn mức này tuy có cao hơn quy định tại Luật Đất đai 2003 (Điều 70), nhưng vẫn chưa phù hợp với yêu cầu tích tụ ruộng đất để mở rộng quy mô sản xuất của hộ gia đình và trang trại theo hướng tập trung quy mô lớn, chuyên môn hóa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp (trong thực tế, nhiều địa phương đang thực hiện việc “dồn khoảnh, đổi thửa” theo hướng này).
 
Đối với thời hạn sử dụng đất, cũng cần kéo dài hơn, vì nếu như quy định tại Điều 67 của “Dự kiến” là 20 năm và 50 năm (vẫn giữ như quy định của Luật Đất đai 2003 (tại Điều 67), thì vẫn chưa khuyến khích người dân đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đạt năng suất và chất lượng cao, gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
 
c) Về thu hồi đất và giải phóng mặt bằng. Đây là một loại vấn đề cần được giải quyết toàn diện, từ đến bù, giải tỏa cho đến tái định cư, việc làm và thu nhập của những người bị thu hồi đất và sử dụng hợp lý đất đã thu hồi theo một hệ thống chính sách căn cơ, toàn diện. Cách làm phải bảo đảm nguyên tắc công bằng, nhất quán và công khai, minh bạch, tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài, gây bất ổn xã hội.
 
Về đền bù, giải tỏa, hiện đang có ba cách làm: (i) hoặc giữ nguyên cơ chế doanh nghiệp tự thỏa thuận đền bù; (ii) doanh nghiệp tự thỏa thuận phần lớn (ví dụ 80%) và đối với phần còn lại (20%) nếu quá khó khăn thì Nhà nước can thiệp; hoặc (iii) giao cho một tổ chức (như quy định tại tiết d khoản 3 Điều 122 của “Dự kiến”) để thực hiện việc đền bù, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi, giải quyết vấn đề chênh lệch địa tô và tái định cư rồi tổ chức đấu thầu giá đất sạch. Mỗi cách làm đều có những ưu điểm, nhược điểm riêng. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp muốn nhận đất sạch do việc thỏa thuận đền bù giải tỏa quá khó khăn; song cũng có doanh nghiệp muốn tự thỏa thuận. Phải chăng nên tùy theo tình hình cụ thể của mỗi địa phương, mỗi loại dự án mà cân chắc dùng cách nào. Mới đây, Chính phủ đã cho phép thành lập thí điểm Tổng công ty đền bù giải tỏa với thời gian thí điểm là 5 năm; song điều cần chú ý là Tổng công ty này cũng phải hoạt động theo quy luật thị trường, tránh biện pháp hành chính, độc quyền, “xin – cho”, nhất là bảo đảm quyền lợi của người bị thu hồi đất; hơn nữa, đây không đơn thuần là đền bù, giải tỏa mà là một loạt các vấn đề cần được xử lý toàn diện, từ đến bù, giải tỏa cho đến tái định cư, việc làm và thu nhập của những người bị thu hồi đất. .
 
Có lẽ vấn đề là ở chỗ hiện nay còn có sự chênh lệch về giá đất trước và sau đền bù; chênh lệch giá giữa các dự án phát triển nhà ở, phát triển kinh tế với các dự án có mục đích lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng; nếu ta bồi thường theo một giá cho mọi dự án thì có thể giải quyết được căn bản vướng mắc hiện nay. Giá cả đền bù phải bảo đảm lợi ích thỏa đáng của cả ba bên: Nhà nước, người bị thu hồi đất và doanh nghiệp: không để thiệt cho người có đất và cũng không để doanh nghiệp phải chi phí quá tốn kém; Nhà nước thu được thuế. Người dân cần được đền bù theo giá trị thực tế của mảnh đất họ đang sử dụng, cũng tức là gíá thị trường trong điều kiện bình thường. Giá cả đền bù phải thỏa đáng để người bị thu hồi đất có chỗ ở mới không kém và tốt hơn nơi ở cũ. Chúng tôi hoan nghênh việc giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường trực tiêp nghiên cứu ban hành khung gíá đất (chứ không phải Bộ Tài chính như hiện nay) và khung giá đất được điều chỉnh 5 năm một lần.
 
d) Về thủ tục trong việc giao đất,cho thuê đất,chuyển đổi mục đích sử dụng đất. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải theo đúng quy hoạch sử dụng đât chi tiết hoặc kế hoạch sử dụng đất chi tiết hoặc quy hoạch xây dựng đô thị hoặc quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn như Điều 31 trong “Dự kiến”là đúng
 
Cần thực hiện sự bình đẳng trong việc giao đất và cho thuê đất. Hoan nghênh dự thảo đã có những quy định theo hướng bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thuê đất. Nhưng đất giao cho cơ quan hành chính, cơ quan sự nghiệp cũng phải được tính giá và thuê đất. Đề nghị xem lại các khoản mục phân biệt “Giao đất không thu tiền sử dụng đất”, “Giao đất có thu tiền sử dụng đất” , “Cho thuê đất” tại các điều 33,34, 35 của “Dự kiến” vì quá phức tạp, dễ sinh ra tiêu cực, “xin – cho”.  Để thực hiện tiết kiệm trong việc sử dụng đất đai, cũng cần có những chế tài đối với những doanh nghiệp nhận đất nhưng chậm triển khai kinh doanh, hoặc nhận đất để “xí chỗ” đầu cơ, bán đi bán lại kiếm lời bất chính.
 
Các cuộc giao dịch trên thị trường thứ cấp (hiện nay, 70% DNNVV có được đất để sử dụng là thông qua thị trường thứ cấp) cũng phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt công nhận.
 
Thuế chuyển quyền sử dụng đất hiện nay thu 100% là quá lớn, vì khi mua đất doanh nghiệp đã phải trả tiền, nay lại phải trả tiền thuế chuyển quyền sử dụng đất, doanh nghiệp cho rằng “đây là trả tiền để mua lại đất của mình”; vậy chỉ nên thu ở mức 10 – 20% là vừa phải.
 
Chúng tôi tán thành quy định (Điều 48 của “Dự kiến”) về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và do Bộ Tài nguyên và Môi trường phát hành, trên đó ghi đủ các thông tin về đất, tài sản trên đất, sự biến động về người sử dụng hoặc về tài sản. Đây là một quy định rất đúng đắn và cần thiết khắc phục những phiền hà, chồng chéo trong việc sử dụng các loại “số đỏ”, “sổ hồng” tồn tại nhiều năm nay.
 
đ) Cuối cùng, xin được nhấn mạnh về việc thi hành Luật. Doanh nghiệp quan tâm không chỉ những quy định của Luật Đất đai, mà quan trọng hơn nữa là những quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hànhvà sự chấp hành đúng đắn của cấp dưới. DNNVV đã từng chịu đựng nhiều gian khó trong việc tiếp cận đất đai, có khi ngay tại địa phương mình hoạt động, do đó không mở rộng được quy mô sản xuất, lỡ cơ hội kinh doanh, chỉ vì sự tắc trách, vô trách nhiệm hoặc tham nhũng của công chức và cấp chính quyền co sở. Chính vì vậy, DNNVV rất quan tâm các điều khoản về tổ chức thực hiện: từ việc phân cấp cho chính quyền các cấp trong việc thi hành các chính sách đất đai, cho đến trách nhiệm và những hình thức chế tài trong việc thi hành chức trách đối với mỗi cấp, mỗi cá nhân người có thẩm quyền. 
Cũng xin đề nghị xem lại: rất không nên chuyển việc khiếu nại của dân và doanh nghiệp đối với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cấp Sở hoặc của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, thành phố đến Thủ tướng Chính phủ, mà nên khởi kiện ra Tòa án hành chính .
 
Chúng tôi hiểu rằng đất đai là một vấn đề liên quan đến quan điểm, đường lối, có những việc ngoài phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tài nguyên và Môi trường; lâu nay có những chồng chéo, lộn xộn kéo dài gây thiệt hại cho đất nước không chỉ là trách nhiệm của Bộ. Đã có những chồng chéo, mâu thuẫn giữa các đạo luật liên quan đến đất đai (nhất là Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở) được phát hiện song chậm được xử lý mà nguyên nhân sâu xa là thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở cấp trung ương cũng như ở địa phương; dẫn đến công việc bị đùn đẩy, kéo dài, chỉ có dân và doanh nghiệp lãnh đủ hậu quả. Chính vì vậy, lần này, để bảo đảm việc thi hành Luật được nghiêm túc ở các ngành và các địa phương, rất cần có cơ chế thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ liên quan, nhất là giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường với Bộ Tài chính, Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
 
*
Tóm lại, việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai là rất cần thiết để bảo đảm cho thị trường đất đai vận hành lành mạnh, thông suốt. Bản “Dự kiến” do Bộ Tài nguyên và Môi trường đưa ra đã có nhiều điểm mới sát thực tế, thể hiện sự cố gắng rất lớn của Bộ. Song, như kinh nghiệm cho thấy, trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta, trước hết phải xác định cho rõ tư tưởng chính sách của Luật. Sau khi đã thống nhất tư tưởng chính sách, việc soạn thảo các điều khoản của Luật sẽ chỉ còn là vấn đề kỹ thuật, nghiệp vụ. Đồng thời, để các quy định đáp ứng đúng yêu cầu của cuộc sống, xin đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức tiếp các cuộc khảo sát thực tiễn, điều tra xã hội học về từng chuyên đề, tổ chức việc đánh giá tác động của những chính sách dự kiến. Được như vậy, chắc chắn việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai 2003 lần này sẽ đạt kết quả tốt, đặt nền móng cho việc hoàn chỉnh Luật Đất đai trong thời gian tới.
 
 
----------------------------
 
 
 

Các văn bản liên quan