VCCI góp ý Dự thảo Nghị định của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ôtô

Thứ Tư 14:31 12-03-2014

Kính gửi: Vụ Vận tải – Bộ Giao thông vận tải

Trả lời Công văn số 223/BGTVT-VT của Bộ Giao thông vận tải ngày 07/01/2014 về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ôtô (sau đây gọi tắt là Dự thảo Nghị định), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

I.                   Quan điểm tiếp cận

Với tính chất là ngành nghề có thể có tác động trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng con người và an ninh trật tự, kinh doanh vận tải bằng ô tô cần và nên là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước thông qua các điều kiện này.

Đặc biệt trong bối cảnh hoạt động kinh doanh vận tải bằng ô tô thời gian gần đây có nhiều vấn đề nổi cộm,  ảnh hưởng nghiêm trọng tới các lợi ích công cộng liên quan, viêc tăng cường các điều kiện kinh doanh đối với các hoạt động trong ngành này như trong Dự thảo có thể là hợp lý.

Tuy nhiên, để việc quản lý có hiệu quả đồng thời đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, các quy định cần đảm bảo các yêu cầu sau:

-         Hợp lý: các quy định về điều kiện kinh doanh phải vừa phù hợp với yêu cầu quản lý hiệu quả nhà nước vừa phù hợp với thực tế, không gây khó khăn, trở ngại một cách bất hợp lý đối với doanh nghiệp, không vượt quá mục tiêu quản lý cần thiết;

-         Minh bạch: các quy định về trình tự, thủ tục cần cụ thể, rõ ràng, tạo cách hiểu thống nhất và tạo thuận lợi cho các đối tượng khi áp dụng.

-         Thống nhất: các quy định tại Dự thảo phải thống nhất với quy định của các văn bản có liên quan.

Đối chiếu với Dự thảo còn có một số quy định chưa đáp ứng được các yêu cầu trên, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét để hoàn thiện.

II.               Góp ý cụ thể

1.      Về kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng và kinh doanh vận tải khách du lịch bằng xe ôtô (Điều 7, Điều 8)

Theo Dự thảo thì hoạt động “kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng” và “kinh doanh vận tải khách du lịch bằng xe ôtô” là hai hình thức kinh doanh vận tải.

Cách phân biệt này cần xem xét lại bởi:

-         Về bản chất, kinh doanh vận tải khách du lịch bằng ô tô cũng là kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng (bằng ô tô), chỉ có điều đối tượng được chuyên chở là “khách du lịch” chứ không phải khách nói chung mà thôi. Từ góc độ mục tiêu quản lý (bảo vệ hành khách) thì không có cơ sở khách quan nào để phân biệt các điều kiện kinh doanh áp dụng vận tải khách du lịch bằng xe ô tô và vận tải hành khách theo hợp đồng.

Nếu vì lý do cần bảo vệ tốt hơn cho khách du lịch, đặc biệt là khách nước ngoài (với suy đoán rằng nhóm khách này không có được các điều kiện để tự bảo vệ mình ở mức tương đương với khách tại địa phương) như một số nước đang áp dụng thì Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch (cơ quan quản lý chuyên ngành) có thể đặt thêm các điều kiện riêng đối với xe ô tô vận chuyển khách du lịch (có thể chỉ áp dụng đối với xe chở khách du lịch nước ngoài). Tuy nhiên, đây sẽ chỉ là các điều kiện kinh doanh riêng áp dụng cho xe ô tô khi sử dụng cho mục đích này, do cơ quan chuyên ngành du lịch áp dụng và kiểm soát, chứ không thể là một loại hình kinh doanh riêng mà Bộ Giao thông vận tải quản lý trong khuôn khổ Nghị định này.

-         Trong bản thân Dự thảo (Điều 7, Điều 8) thì các quy định cũng không làm rõ được sự khác biệt giữa hai hình thức này (đều là không theo tuyến cố định, được thực hiện theo hợp đồng).

-         Trên thực tế, các doanh nghiệp có xe sử dụng để kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng thì cứ có khách thuê xe theo hợp đồng là doanh nghiệp nhận, chứ ít khi nào doanh nghiệp chỉ chọn nhận khách là/không là khách du lịch.

-         Về pháp luật, quy định tại Điều 8 Dự thảo cũng không thống nhất với các quy định về điều kiện kinh doanh vận chuyển khách du lịch được quy định tại Điều 57 Luật Du lịch năm 2005.

Do vậy, để đảm bảo sự rõ ràng và tính thống nhất trong quy định, đề nghị Ban soạn thảo quy định bỏ quy định về kinh doanh vận tải khách du lịch bằng xe ôtô tại Điều 8 và dẫn chiếu tới quy định tại Luật Du lịch năm 2005 và các văn bản hướng dẫn Luật này.

2.      Về giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh vận tải hàng hóa trong việc bồi thường hàng hóa hư hỏng, mất mát, thiếu hụt (Điều 10)

Điều 10 Dự thảo quy định về hạn mức tối đa bồi thường thiệt hại đối với hàng hóa vận chuyển theo hợp đồng vận tải (50.000 đồng/kg hàng bị tổn thất).

Quy định này là chưa hợp lý, ít nhất bởi các lý do sau:

-         Mối quan hệ giữa người kinh doanh vận tải hàng hóa và người thuê vận tải là quan hệ tư, được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên và được điều chỉnh bởi Luật Thương mại, Bộ luật dân sự, trong đó đã có quy định rất rõ về nguyên tắc bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra. Hoạt động vận tải hàng hóa bằng đường bộ lại không có các đặc trưng rủi ro riêng như hoạt động vận tải hàng hóa bằng đường hàng hải, đường không.. (được suy đoán là các hình thức vận tải có tính rủi ro cao nên cần giới hạn mức bồi thường). Do đó việc Dự thảo quy định về trách nhiệm bồi thường trong Hợp đồng vận tải là không cần thiết.

-         Ngay cả khi việc đưa ra giới hạn bồi thường là cần thiết thì việc Dự thảo đưa ra giới hạn bồi thường cứng (50.000 VNĐ)/kg hàng bị tổn thất mà không có giải trình nào về con số này là không thích hợp (bởi giá trị các loại hàng hóa là không giống nhau nên có thể dẫn tới sự bất công giữa các đối tượng, đặc biệt đối với các trường hợp giá trị của loại hàng hóa không thể hiện ở trọng lượng).

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định tại Điều 10.

3.      Về điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ôtô (Chương II và III)

-         Quy định về số lượng xe tối thiểu: Theo quy định tại Dự thảo thì kinh doanh vận tải hành khách theo tuyến cố định (Điều 14), vận tải hành khách theo hợp đồng, vận tải khách du lịch bằng xe ô tô và vận tải hành khách để phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của đơn vị (Điều 17) và kinh doanh liên vận quốc tế (Điều 19) các doanh nghiệp phải đáp ứng điều kiện về số lượng phương tiện tối thiểu.

Đề nghị Ban soan thảo xem xét quy định này ở điểm:

Quy định về điều kiện số lượng tối thiểu phương tiện mà doanh nghiệp phải đáp ứng khi tham gia vào hoạt động kinh doanh sẽ đưa đến cách hiểu chỉ những doanh nghiệp có tiềm lực tài chính thì mới được quyền tham gia vào hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực này. Trong hoạt động kinh doanh vận tải hành khách, quy mô doanh nghiệp không phải là “bảo chứng” trong việc đảm bảo chất lượng dịch vụ, an toàn của phương tiện khi lưu thông. Việc áp đặt điều kiện về quy mô sẽ tạo ra rào cản và phân biệt một cách bất hợp lý giữa các đối tượng khi gia nhập vào thị trường trong hoạt động kinh doanh vận tải hành khách.

Giải pháp áp đặt về quy mô có thể là thích hợp nếu có số liệu thống kê rõ ràng chứng minh rằng đơn vị kinh doanh quy mô nhỏ là nguyên nhân gây tai nạn nhiều hơn đáng kể so với doanh nghiệp có quy mô lớn, những doanh nghiệp có quy mô lớn sẽ đảm bảo được chất lượng dịch vụ cũng như sự an toàn của các phương tiện khi lưu thông. Nếu không, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ quy định về yêu cầu số lượng phương tiện tối thiểu tại các Điều trên.

-         Về hình thức: Chương II và III thực chất đều quy định về các điều kiện kinh doanh mà chủ thể kinh doanh phải tuân thủ, vì vậy việc phân 02 Chương này là không cần thiết.

Đề nghị Ban soạn thảo gộp 02 Chương này vào một, và với mỗi loại hình kinh doanh thì gộp các điều kiện vào làm một, mỗi loại sẽ bao gồm 02 nhóm điều kiện:

+ Nhóm điều kiện để được kinh doanh

+ Nhóm điều kiện phải tuân thủ trong quá trình kinh doanh

-         Về việc lái xe phải mang theo danh sách hành khách đối với kinh doanh vận tải hành khách theo hợp đồng (Điều 7.2):

Quy định này là không hợp lý bởi:

+ Không rõ quy định nhằm mục đích gì? Việc biết tên hành khách sẽ giúp cho việc gì? Nếu là để xác định nhân thân của hành khách khi xảy ra sự cố thì tại sao quy định này không áp dụng cho các trường hợp khác? Hơn nữa điều này đi ngược lại thông lệ chung (các phương tiện vận tải đường bộ, đường sắt không ở đâu kiểm soát nhân thân hành khách cả)

+ Quy định này có cản trở quyền tự do của các bên không (đặc biệt là phía hành khách – họ đã thuê xe, muốn cho ai lên xe là việc của họ, miễn không quá số người quy định)

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này.

-         Về lập sổ theo dõi hoạt động của lái xe (điểm b khoản 4 Điều 12): Dự thảo quy định “Sổ quản lý lái xe tổng hợp thông tin về quá trình lao động của người lái xe, là căn cứ để đơn vị vận tải đánh giá lái xe khi tuyển dụng, thi đua khen thưởng, đánh giá chất lượng dịch vụ vận tải”. Quy định này là không cần thiết và dường như can thiệp sâu vào những hoạt động mang tính chất quản lý nội bộ của doanh nghiệp và không có nhiều ý nghĩa nếu nhìn từ góc độ quản lý nhà nước. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này (trừ khi Sổ quản lý lái xe là nhằm kiểm soát việc lái xe tuân thủ các quy định pháp luật liên quan, mà ở đây thì dường như mục tiêu này không thể đạt được).

-         Điều kiện của nhân viên phục vụ trên xe (điểm c khoản 3 Điều 12): Dự thảo quy định nhân viên phục vụ trên xe phải “có Giấy phép lái xe phù hợp với loại xe điều khiển để kinh doanh vận tải bằng ôtô” (điều kiện tại Điều 11.2 được dẫn chiếu), điều này là chưa hợp lý, bởi nhân viên phục vụ trên xe không cần thiết phải có giấy phép lái xe. Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này.

-         Điều kiện kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi (Điều 16):

+ Khoản 5 quy định “Đơn vị vận tải taxi phải đăng ký và thực hiện sơn biểu trưng (logo) (không trùng với biểu trưng đã đăng ký của đơn vị vận tải trước đó) và số điện thoại giao dịch cho các xe thuộc đơn vị. Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương có quy định màu sơn cho xe taxi thì đơn vị vận tải phải đăng ký màu sơn và thực hiện theo quy định của thành phố”. Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại quy định này ở các điểm:

·        Tính minh bạch: Không rõ yêu cầu “không trùng với biểu trưng đã đăng ký của đơn vị vận tải trước đó” được xác định trong phạm vi của địa phương (cấp tỉnh) hay là cả nước? Ngoài ra, nếu logo là nhãn hiệu thương mại đã đăng ký bảo hộ (và thường là như vậy) thì quy định này có cần thiết không?

·        Tính hợp lý và pháp lý: quy định “thành phố trực thuộc Trung ước có quy định màu sơn cho xe taxi thì đơn vị vận tải phải đăng ký màu sơn và thực hiện theo quy định của thành phố” thực chất là trao cho các thành phố này quyền quy định về màu sơn cho xe taxi. Điều này dường như là can thiệp vào quyền tự quyết của doanh nghiệp đã được Luật Doanh nghiệp năm 2005 bảo vệ, bởi việc quyết định màu sơn của xe taxi như thế nào tùy thuộc vào sự lựa chọn của mỗi doanh nghiệp, việc nhà nước áp đặt về màu sơn của xe taxi là không cần thiết và không rõ về mục tiêu quản lý của quy định này.

Mặt khác, việc quy định về việc thành phố trực thuộc Trung ương được quyền quy định về màu sơn taxi, đây cũng được xem là một dạng của điều kiện kinh doanh (phải đáp ứng điều kiện về màu sơn mới được phép hoạt động vận tải bằng taxi), do đó vi phạm về thẩm quyền theo quy định tại khoản 5 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không được quyền quy định về điều kiện kinh doanh).

Đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bỏ quy định “Đối với các thành phố trực thuộc Trung ương có quy định màu sơn cho xe taxi thì đơn vị vận tải phải đăng ký màu sơn và thực hiện theo quy định của thành phố”

+ Khoản 7 quy định “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định số lượng xe taxi tối thiểu mà mỗi đơn vị phải có (nhưng không được dưới 10 xe) khi kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi trên địa bàn”. Việc Ủy ban nhân dân được quyền quy định về điều kiện kinh doanh (việc xác định số lượng xe taxi tối thiểu mà mỗi đơn vị phải có được xem là điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp khi muốn tham gia kinh doanh) là chưa phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 7 Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh không được quyền quy định về điều kiện kinh doanh). Để đảm bảo tính thống nhất và pháp lý trong quy định, đề nghị Ban soạn thảo xem xét bỏ khoản 7 Điều 16.

4.      Về quy định quản lý tuyến đối với kinh doanh vận tải hành khách theo tuyến cố định (Khoản 3, 4 Điều 4)

Quy định tại Khoản 3 và 4 Dự thảo về “quản lý tuyến” có một số điểm chưa hợp lý sau:

-         Về mặt hình thức: Toàn bộ Dự thảo tập trung vào việc quy định về các quyền và nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh, trong Điều 4 Dự thảo cũng như vậy. Việc tự nhiên có một khoản quy định về nội dung quản lý Nhà nước để trong Điều này có lẽ là không thích hợp.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo thiết kế lại cách quy định cho phù hợp, ví dụ

“3. Chủ thể kinh doanh vận tải hành khách bằng xe ô tô theo tuyến cố định phải tuân thủ các yêu cầu về quản lý tuyến đã được của cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền công bố, bao gồm:

a)     Quy hoạch mạng lưới tuyến;

b)     Tuyến xe, biểu đồ chạy xe trên tuyến, tần suất chạy xe trên tuyến

….

-         Về mặt nội dung:

Trong khi việc cho phép một chủ thể được tham gia khai thác tuyến có thể là cần thiết (để kiểm soát và đảm bảo trật tự an ninh…) thì việc một chủ thể muốn ngừng hoạt động khai thác tuyến hoặc một số xe trên tuyến của mình là việc hoàn toàn thuộc quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu là trường hợp bắt buộc phải duy trì tuyến để phục vụ lợi ích công cộng thì đây lại là vấn đề của các doanh nghiệp Nhà nước hoặc các chủ thể kinh doanh đã nhận ưu đãi của Nhà nước để thực hiện dịch vụ công ích, không phải vấn đề chung của mọi chủ thể kinh doanh và vì thế không nên quy định tại đây.

Vì vậy đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định về vấn đề này: chủ thể muốn dừng khai thác tuyến chỉ có nghĩa vụ thông báo cho Cơ quan quản lý tuyến, không có nghĩa vụ đề nghị và chờ chấp thuận của cơ quan này.

5.      Một số quy định liên quan đến trình tự, thủ tục chưa đảm bảo tính minh bạch

Trong Dự thảo có một số quy định về thủ tục hành chính, tuy nhiên lại không có quy định về trình tự, thủ tục, ví dụ:

-         Đăng ký màu sơn cho xe taxi trong trường hợp các thành phố trực thuộc Trung ương có quy định (khoản 5 Điều 16)[1]

-         Tập huấn nghiệp vụ quản lý, điều hành vận tải bằng xe ô tô theo quy định của Bộ Giao thông vận tải (hình thức của tập huấn được thể hiện là chứng chỉ hay là giấy chứng nhận?)

-         Chứng nhận bảo đảm an toàn giao thông trong hoạt động vận tải theo quy định của Bộ Giao thông vận tải (điều kiện được cấp là gì? Lưu ý là văn bản cấp Bộ không được phép quy định về điều kiện kinh doanh)

-         Thủ tục gia hạn, sửa đổi, cấp lại trong trường hợp giấy phép kinh doanh vận tải bằng xe ôtô bị mất, hư hỏng (Chương IV)

-         Điều 21 quy định về hồ sơ xin Giấy phép, trong đó có mục “phương án kinh doanh vận tải bằng ô tô”. Điều 22 quy định Cơ quan có thẩm quyền “thẩm định hồ sơ”.

Vậy không rõ cơ quan này thẩm định “phương án kinh doanh vận tải bằng ô tô” về các khía cạnh nào? Dựa trên tiêu chí nào? (bởi đây là chiến lược kinh doanh, phụ thuộc vào quyền của người kinh doanh, và nếu thất bại thì người kinh doanh phải chịu hậu quả - cơ quan quản lý quản lý gì ở đây?)

Đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể các thủ tục trên.

6.      Một số góp ý khác

-         Một số quy định có quy định dẫn chiếu không chính xác, ví dụ: khoản 3 Điều 15 (dẫn chiếu tới quy định tại điểm b khoản 2 Điều 14 trong khi phải dẫn chiếu tới điểm b khoản 3 Điều 14); khoản 5 Điều 15 (dẫn chiếu tới quy định tại khoản 3 Điều 14 trong khi phải dẫn chiếu tới khoản 4 Điều 14).

-         Quy định chuyển tiếp: so với quy định hiện hành, Dự thảo có một số quy định sửa đổi, bổ sung, đặc biệt về các điều kiện kinh doanh. Do vậy, Ban soạn thảo cần quy định chuyển tiếp đối với những doanh nghiệp đang áp dụng theo quy định về điều kiện kinh doanh cũ.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định của Chính phủ về kinh doanh và điều kiện kinh doanh vận tải bằng xe ôtô. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Ngoài ra gửi kèm theo phụ lục một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.



[1] Góp ý này nhìn dưới góc độ của tính minh bạch trong quy định, không có nghĩa phủ định lại kiến nghị bỏ quy định đã góp ý ở mục 3.

Các văn bản liên quan