Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Quảng cáo
Góp ý Đề xuất chính sách của Luật Đầu tư ̣(thay thế)
Kính gửi: Bộ Tài chính
Trả lời Công văn số 12189/BTC-PC của Bộ Tài chính về việc đề nghị góp ý hồ sơ đề xuất chính sách của Luật Đầu tư (thay thế), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến ban đầu như sau:
- Chính sách 1: Hoàn thiện, đơn giản hóa thủ tục đầu tư kinh doanh, tiếp tục tăng cường phân cấp phân quyền chấp thuận chủ trương đầu tư
1.1. Về chấp thuận chủ trương đầu tư
Liên quan đến “thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư”, Dự thảo Tờ trình đề xuất thu hẹp diện dự án phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân (UBND) cấp tỉnh đối với các dự án đã được công bố để lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo đó, UBND cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư đối với “Dự án đề xuất sử dụng tài nguyên (nguồn lực) như đất, rừng, biển, khoáng sản (trừ các dự án đã được công bố để lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư)”; “Dự án sử dụng đất, khu vực biển tại tại đảo và xã, phường, thị trấn biên giới; xã, phường, thị trấn ven biển; khu vực khác có ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh”; “Dự án có quy mô lớn, quan trọng trong lĩnh vực cảng biển, sân bay, điện, khu công nghiệp,…”.
Theo đề xuất này, sẽ có dự án đề xuất sử dụng đất thuộc trường hợp không phải chấp thuận chủ trương đầu tư (những trường hợp phải đấu thầu, đấu giá) và những trường hợp phải chấp thuận chủ trương đầu tư.
Tuy nhiên, theo quy định của Luật Đất đai, điều kiện để đấu giá đất là “có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện” (điểm b khoản 2 Điều 125), để có trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện dự án phải được chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh (đối với những dự án thuộc trường hợp phải chấp thuận chủ trương đầu tư của UBND cấp tỉnh).
Điều kiện để đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư “Thuộc danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự án đầu tư có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định” (điểm a khoản 3 Điều 126 Luật Đất đai); “Căn cứ danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự án đầu tư có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đầu tư hoặc nhà đầu tư lập hồ sơ đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư làm cơ sở thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư.” (khoản 1 Điều 10 Nghị định 115/2024/NĐ-CP).
Các văn bản pháp luật liên quan vẫn đang quy định theo hướng, các dự án đầu tư thuộc trường hợp phải đấu thầu hoặc đấu giá để lựa chọn nhà đầu tư, nếu thuộc trường hợp phải chấp thuận chủ trương đầu tư, sẽ phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư trước rồi mới tiến hành đấu thầu và đấu giá.
Trước thời điểm Luật Đầu tư 2020 có hiệu lực, giữa các văn bản pháp luật đang có sự chưa thống nhất về việc dự án nào phải thực hiện thủ tục đấu giá, dự án nào thực hiện đấu thầu, dự án nào phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Luật Đầu tư 2020 đã quy định thống nhất theo hướng xác định các dự án phải chấp thuận chủ trương đầu tư, sau đó sẽ xác định các phương thức lựa chọn nhà đầu tư: đấu giá, đấu thầu, chấp thuận nhà đầu tư.
Các đề xuất của chính sách liên quan đến thủ tục chấp thuận đầu tư cần phải nhìn trong tổng thể hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh việc thực hiện dự án đầu tư, để đảm bảo tính thống nhất, rõ ràng. Đề nghị bổ sung các nội dung để làm rõ hơn:
– Định hướng kiến nghị sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan (đất đai, đấu thầu, nhà ở, bất động sản …) về việc thực hiện dự án đầu tư trong trường hợp dự án không chấp thuận chủ trương đầu tư;
– Trong trường hợp dự án có đề xuất sử dụng đất, rừng, biển, khoáng sản, có quy mô lớn … thì trường hợp nào phải chấp thuận chủ trương đầu tư, trường hợp nào không phải chấp thuận chủ trương đầu tư.
– Đối với trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư thì phương thức lựa chọn nhà đầu tư là gì? Bởi vì, đối với các dự án sử dụng đất đã được công bố để lựa chọn nhà đầu tư theo hình thức đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư sẽ không thuộc trường hợp phải chấp thuận chủ trương đầu tư. Như vậy, ngoài hai phương thức lựa chọn nhà đầu tư là đấu thầu, đấu giá, thì phương thức lựa chọn nhà đầu tư cho trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư này là gì?
1.2. Về thủ tục đầu tư đặc biệt
Một trong những điểm sáng nổi bật trong lần sửa đổi Luật Đầu tư vừa rồi là bổ sung quy định về trình tự thủ tục đầu tư đặc biệt. Đây là bước đột phá rất lớn về thủ tục, chuyển từ tư duy “tiền kiểm” sang “hậu kiểm” khi bỏ phần lớn các thủ tục nhà đầu tư phải thực hiện trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Tuy nhiên, quy định hiện tại chỉ áp dụng cho một số dự án nhất định. Đề nghị nghiên cứu mở rộng dự án được áp dụng thủ tục đầu tư đặc biệt này cho một số diện khác như các dự án đầu tư trong khu công nghệ cao, khu công nghiệp… để tạo đột phá trong cải cách thủ tục hành chính và tạo ra sự hấp dẫn của môi trường đầu tư kinh doanh.
- Chính sách 2: Hoàn thiện quy định về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
Về Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện
Dự thảo đề xuất chuyển Danh mục ngành, nghề kinh doanh có điều kiện từ Luật xuống cấp Nghị định, Luật chỉ quy định nguyên tắc xác định ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.
Đề xuất này cần xem xét, cân nhắc lại ở các điểm sau:
– Việc quy định Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư nhằm mục tiêu đảm bảo tập hợp được tất cả các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện hiện hành. Việc công khai tại luật này thực hiện đúng tinh thần Nhà nước công bố rõ các ngành nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, còn lại người dân, doanh nghiệp được làm làm những gì mà pháp luật không cấm. Các luật sau ban hành thêm ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đồng thời phải sửa Danh mục tại Luật Đầu tư. Danh mục quy định tại Luật sẽ kiểm soát được việc quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện, điều kiện kinh doanh ở các văn bản cấp dưới luật. Đây được xem là thành công của Luật Đầu tư từ 2014 cho đến nay.
– Nếu Danh mục quy định tại Nghị định, sẽ không kiểm soát được tình trạng bổ sung thêm các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhất là việc bổ sung ngành nghề đó lại xuất phát từ các văn bản cấp dưới luật (nghị định khác). Bởi vì, theo nguyên tắc về hiệu lực pháp lý, các nghị định có hiệu lực pháp lý ngang nhau và nghị định ban hành sau sẽ ưu tiên được áp dụng nếu quy định khác nhau giữa các nghị định. Điều này dẫn tới tình trạng, ngành, nghề kinh doanh có điều kiện sẽ được bổ sung một cách tùy nghi và doanh nghiệp sẽ không thể nhận biết được các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện có trên thực tế;
– Nghị định quy định về Danh mục sẽ khiến cho Danh mục này trở nên ít ý nghĩa. Nếu xem đây là Danh mục tập hợp tất cả các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, những ngành nghề không có trong Danh mục này sẽ không được xem xét là ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì Danh mục này sẽ không khả thi. Vì như phân tích ở trên, các luật, nghị định ban hành sau sẽ dễ dàng ban hành các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và các ngành nghề này sẽ không có trong Danh mục và sẽ được ưu tiên áp dụng. Nếu kỳ vọng Danh mục này sẽ kiểm soát được việc ban hành ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì sẽ không hiệu quả nếu nó chỉ ở trong văn bản ở cấp nghị định.
Thực tế, trong hệ thống pháp luật kinh doanh cũng có Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện quy định theo Luật Thương mại năm 2005. Nhưng từ khi ra đời, Danh mục này gần như không được áp dụng bởi sự lỗi thời và không có giá trị hiệu lực khi không được cập nhật thường xuyên và cũng không có mục tiêu rõ ràng. Nếu Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại văn bản cấp nghị định, nhiều khả năng cũng có thể rơi vào tình trạng như Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện.
Trong bối cảnh, Đảng, Nhà nước đang có chính sách cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp để thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn, cần thiết phải có chính sách để kiểm soát việc ban hành ngành, nghề kinh doanh có điều kiện một cách chặt chẽ và hiệu quả hơn. Việc ban hành Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư là một trong những biện pháp kiểm soát đó, đồng thời với việc ràng buộc trách nhiệm giải trình, chứng minh chặt chẽ hơn khi có đề xuất bổ sung ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Do đó, đề nghị chọn phương án 2 của chính sách này đó là “Giữ nguyên quy định hiện hành về nguyên tắc xác định ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và quy định Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư.”; “Rà soát, sửa đổi, bổ sung Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo hướng đề xuất bãi bỏ các ngành, nghề không cần thiết, không đáp ứng nguyên tắc xác định điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư”.
- Chính sách 4: Quản lý hoạt động đầu tư ra nước ngoài phù hợp với mục tiêu, nhu cầu quản lý nhà nước và quyền tự do đầu tư kinh doanh của nhà đầu tư
Dự thảo Tờ trình đưa ra ba phương án, cụ thể:
– Phương án 1: Bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Quốc hội và của Thủ tướng Chính phủ; Bãi bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Bộ Tài chính; Nhà đầu tư đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc chuyển tiền ra nước ngoài
– Phương án 2: bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài; thu hẹp diện dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài theo hướng chỉ áp dụng đối với dự án có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên, đối với dự án có quy mô dưới 20 tỷ đồng thì chỉ cần thực hiện đăng ký giao dịch ngoại hối với Ngân hàng Nhà nước để chuyển tiền ra nước ngoài;
– Phương án 3: giữ nguyên quy định
Như Trong Công văn số 0836/LĐTM-PC gửi Bộ Tài chính ngày 30/5/2025, VCCI cho rằng kiểm soát hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các nguồn vốn tư nhân, theo hình thức cấp phép, dựa vào quy mô vốn hoặc theo nhóm ngành nghề, dường như chưa tìm thấy mục tiêu rõ ràng, hợp lý nào. Trong khi đây lại là hình thức hạn chế đáng kể đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư và đi ngược lại chính chủ trương “Nhà nước khuyến khích đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.” đang ghi nhận tại khoản 1 Điều 51 Luật Đầu tư. VCCI kiến nghị bỏ cơ chế yêu cầu phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài và cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài.
Vì vậy, trong Dự thảo Tờ trình, VCCI đánh giá rất cao và đồng tình với Bộ Tài chính khi lựa chọn Phương án 1.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với hồ sơ đề xuất chính sách của Luật Đầu tư (thay thế). Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.