Trích ý kiến của đại biểu Ngô Văn Minh – Quảng Nam về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật sở hữu trí tuệ

Thứ Sáu 16:54 05-06-2009

Chúng tôi xin phát biểu góp ý mấy vấn đề sau đây.

Nhận xét chung của chúng tôi là còn hàng loạt quy định quan trọng khác cần phải sửa đổi bổ sung nhưng chưa được phát hiện trong quá trình chuẩn bị dự án luật sửa đổi lần này. Ngược lại có những quy định không cần phải sửa nhưng lại được sửa, đề nghị sửa, hoặc sửa chưa phù hợp. Tôi rất tán thành ý kiến phát biểu của các đại biểu Phan Trung Lý, Vũ Hồng Anh, Nguyễn Minh Thuyết, Trần Thị Hoa Ry và tôi xin nêu thêm vài vấn đề như sau:

Thứ nhất, chúng ta quy định có những điều sửa như tôi đã nói ở trên là quy định vượt quá cam kết quốc tế. Một nhóm trong số các quy định cần sửa đổi là quy định liên quan đến cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế là phương hướng được xác định trong các văn bản là cần sửa đổi một số quy định để làm cho pháp luật Việt Nam phù hợp với yêu cầu hoặc tương thích với chuẩn mực quốc tế hơn. Tuy nhiên trên thực tế Ban soạn thảo chỉ kiến nghị sửa đổi một số quy định hiện hành của Việt Nam được đánh giá là đang ở dưới mức cần thiết, thấp hơn chuẩn mực quốc tế. Còn vấn đề ngược lại thì hầu như chưa được quan tâm. Đó là các trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam đang ở mức độ cao hơn rất nhiều so với chuẩn mực hoặc đòi hỏi của các điều ước quốc tế. Tất nhiên, về nguyên tắc Việt Nam hoàn toàn có thể áp dụng các chuẩn mực cao hơn mà không vi phạm nghĩa vụ quốc tế, vì các điều ước quốc tế chỉ quy định chuẩn mực tối thiểu. Nhưng làm như vậy có thể gây cho Việt Nam những khó khăn, bất lợi về nhiều mặt ngay cả khi Việt Nam có khả năng thực hiện đầy đủ các quy định đó.

Ở đây tôi xin nói thêm rằng Việt Nam chúng ta là nước nhập khẩu trí tuệ, không phải nước xuất khẩu trí tuệ. Cho nên những việc sửa lần này làm sao có lợi nhất cho lợi ích của quốc gia, dân tộc và của nhân dân. Ví dụ, về bản sao điện tử tạm thời ở Khoản 10, Điều 4, Luật sở hữu trí tuệ quy định sao chép là việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm, hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử. Với quy định này thì độc quyền sao chép theo Điều 20 của Luật sở hữu trí tuệ của tác giả, chủ sở hữu với quyền tác giả được mở rộng để cho phép hoặc ngăn cấm việc tiếp cận với tác phẩm dưới dạng bản sao chưa định hình bằng đối tượng vật chất cụ thể. Như vậy người tra cứu hoặc tìm kiếm thông tin trên Internet có thể bị coi là xâm phạm quyền tác giả, dù không làm một bản sao cố định nào về tác phẩm. Quy định này vượt quá chuẩn mực quốc tế theo Điều 9 Công ước BERNE, Điều 9 Hiệp định TRIPS, Điều 3 Công ước ROMA v.v...

Vấn đề thứ hai, ví dụ biện pháp hải quan mà chúng ta đang áp dụng tương tự như biện pháp hình sự, nghĩa là kiểm soát hàng hóa tại biên giới bằng các biện pháp hải quan theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng vượt quá chuẩn mực tối thiểu mà điều ước quốc tế yêu cầu. Điều khác biệt chính ở đây là phạm vi áp dụng các biện pháp kiểm soát biên giới, trong khi Điều 51 Hiệp định TRIPS và Điều 15 Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chỉ yêu cầu kiểm soát đối với hàng hoá nhập khẩu, trong đó cũng chỉ đối với hành vi cố tình làm giả nhãn hiệu và hành vi sao chép tác phẩm ở quy mô thương mại, thì pháp luật Việt Nam quy định áp dụng đối với mọi hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bao gồm cả hàng hoá xuất khẩu và nhập khẩu, Điều 216 của luật hiện hành.

Vấn đề tiếp theo, quy định không cần sửa, ở đây chúng ta có một so sánh, ví dụ bảo hộ quyền liên quan mà chúng ta ghép chung vào bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan thì chưa phù hợp. Bởi vì có một số quyền liên quan không cần bảo hộ, ví dụ việc biểu diễn Công ước Rome quy định 20 năm, Hiệp định TRIPS quy định 50 năm thì luật của mình là 50 năm là phù hợp. Nhưng việc ghi hình là đối tượng được bảo hộ, điều ước quốc tế không coi bản ghi hình là đối tượng được bảo hộ, thì mình lại ghi là Công ước Rome không bảo hộ, Hiệp định TRIPS không bảo hộ, BTA không bảo hộ, mình thì bảo hộ 50 năm. Tương tự như vậy, tín hiệu vệ tinh điều ước quốc tế không quy định mình cũng quy định là 50 năm Những điểm này có phải chúng ta hăng hái quá không, xin đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét lại vấn đề đó.

Cuối cùng, liên quan đến việc sửa Điều 119, kéo dài thời hạn đăng ký đối với sáng chế và nhãn hiệu chỉ dẫn, tôi bày tỏ quan điểm là chúng ta không nên sửa điều này, nó sẽ gây ra phản cảm đối với nhân dân chúng ta và có điều gì đó chúng ta cảm thấy không vừa lòng khi nỗ lực của Đảng, Nhà nước chúng ta, nhất là Chính phủ hiện nay đang tập trung để đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính. Chúng ta kéo dài ra với lý do như trong Báo cáo sửa đổi của Ban Soạn thảo, tôi đọc rất kỹ thì tôi cũng rất băn khoăn, cũng rất buồn khi chúng ta kéo dài thời hạn, ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân. Nhiều lý do các đồng chí nêu, tôi không hiểu việc người ta nộp đơn, quyền ưu tiên, các đồng chí nói một năm sau, người ta nộp ở đây thì các đồng chí có dẫn chứng vài nước, nhưng các nước khác thế nào. Ví dụ, ở Mỹ 1/1/2009 người ta nộp đơn vào đến 31/12 hồ sơ đó người ta mới nộp tới Việt Nam, rồi họ xử lý như thế nào việc này. Cho nên, nhiều vấn đề chúng tôi rất băn khoăn mà theo giải trình ở đây thì chưa rõ, cho nên tôi đề nghị chưa nên sửa.

Cuối cùng tôi thấy xét theo thực trạng hiện nay và với nhiều điều mà đại biểu Quốc hội nói thì tôi vẫn chưa yên tâm ở chỗ tại sao chúng ta bảo các Điều ước quốc tế mà có người bảo là Ban Soạn thảo chưa hiểu hay đó là cách nói khéo. Tôi nghĩ là hiểu không đúng hoặc hiểu sai, hay không hiểu, chính xác hơn thì còn phải tranh luận nhiều. Do đó, tôi đề nghị cần phải xem xét thông qua một cách thận trọng, tỷ mỷ, toàn diện hơn và được thông qua tại 2 kỳ họp Quốc hội.

 

Các văn bản liên quan