Hiệp hội gỗ và lâm sản – Mấy ý kiến về thuế tài nguyên rừng

Thứ Năm 09:04 23-10-2008

MẤY Ý KIẾN VỀTHUẾTÀI NGUYÊN RỪNG

 

 

1. Năm 1990 Nhà nước ban hành Pháp lệnh thuế tài nguyên, nhằm mục đích khuyến khích việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên được tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả và bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Mọi tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Mọi tổ chức cá nhân Việt nam, nước ngoài khi thác tài nguyên đề phải nộp thuế tài nguyên. Đối tượng tính thuế tài nguyên là: (1)Tài nguyên khoáng sản kim loại và không kim loại, (2) sản phẩm của rừng tự nhiên, (3) cá và các loại thủy sản tự nhiên khác với biểu thuế xuất như sau:

Biểu 1. Biểu thuế tài nguyên

 

TT

Nhóm tài nguyên

Thuế xuất (%)

1

Khoáng sản và kim loại

- Riêng: vàng

2-10

2-15

2

 Khoáng sản không phải kim loại

- Riêng: - đá quý

              - Dầu mỏ khí đốt

1-12

3-15

6-20

 

3.

Sản phẩm của rừng tự nhiên (*  nét đậm là của TG)

10-40

4

Cá, các loại thủy sản tự nhiên khác

3-10

5

Tài nguyên khác

1-10


 ( Nguồn1 : Pháp lệnh Thuế tài nguyên,1990)

            Qua biểu trên cho thấy thuế xuất của sản phẩm rừng tự nhiên là cao nhất. Lấy mức thuế xuất thấp để so sánh thì sản phẩm của rừng tự nhiên bằng 3,3 lần cá, và các loại thủy sản tự nhiên khác, bằng 5 lần khoáng sản và kim loại, 10 lần khoáng sản không kim loại (1,6 lần dầu mỏ khí đốt).Nêu lấy mức thuế xuất cao có những con số tương ứng: 4, 4, 4 và 4.

Một câu hỏi được đặt ra là vì sao đối với sản phẩm rừng tự nhiên lại có thuế xuất cao như vậy so với các loại tài nguyên khác? Thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên có đạt được mục đích đề ra của thuế tài nguyên không? Trong điều kiện chuyển từ nền lâm nghiệp dựa vào quốc doanh là chính sang nghề rừng nhân dân ( dân được giao đất giao rừng) thì mức thuế xuất thuế tài nguyên có thích hợp không?

 2. Đánh giá một các khái quát cho thấy thuế tài nguyên rừng tự nhiên đạt được mục đích đảm bảo nguồn thu ngân sách khi sản lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên còn cao ~ 1 triệu m3/năm). Nhưng từ khi thực thi chủ trương hạn chế khai thác tiến tới đóng cửa rừng tự nhiên

(1997), sản lượng khai thác gỗ rừng tự nhiên giảm mạnh từ 700.000m3/năm xuống còn 150.000m3 (2007) thì nguồn thu thuế tài nguyên của sản phẩm rừng tự nhiên giảm mạnh, không còn là nguồn vốn quan trọng đầu tư cho công tác lâm sinh như trước đây. Vốn đầu tư cho lâm nghiệp trong Dự án Trồng mới 5 triệu ha rừng thời kỳ 1998-2005 là 184.439 triệu đồng (bình quân 1 năm: 23.054,8 triệu), chỉ chiếm tỷ lệ 3,16% tổng vốn đầu tư của Dự án  Trồng mới 5 triệu ha rừng. ( nguồn 2: Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, BộNN&PTNT, 2005).

 Còn mục đích "khuyến khích việc bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên được tiết kiệm, hợp lý, có hiệu quả" thì không đạt được.

             Rừng tự nhiên vốn là một tài nguyên thiên nhiên quan trọng của nước ta, năm 1943 có khoảng 14,3 triệu ha rừng, độ che phủ rừng đạt 43%, dân ta có câu tục ngữ "rừng vàng biển bạc". Nhưng do khai thác không hợp lý và nhiều nguyên nhân xã hội khác, rừng tự nhiên bị giảm sút mạnh. Đến thời điểm năm 1990 độ che phủ rừng toàn quốc giảm xuống mức thấp nhất, chỉ còn 27,8%.  Sau đó, Nhà nước đã thực hiện nhiều chương trình quốc gia nhằm khôi phục và phát triển rừng ( Chương trình 327 và Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng…) độ che phủ rừng đã tăng lên đến 37% vào năm 2005. Trong đó diện tích rừng tự nhiên cũng tăng lên nhờ công tác khoanh nuôi phục hồi rừng. Tuy nhiên rừng tự nhiên giàu và trung bình vẫn tiếp tục xu hướng giảm cả về diện tích và chất lượng rừng.

 

            Biểu 2. Biến động diện tích rừng trên phạm vi toàn quốc 1976-2005 (1000ha)

 

 Hạng mục

1976

1980

1985

1990

1995

2000

2005

 Diện tích rừng

11.169,3

10.608,3

9.891,9

9.175,6

9.302,2

11.314,6

12.616,9

Rừng tự nhiên

11.076,7

10.186,0

9.308,3

8.430,7

8.254,5

9.675,7

10.228.3

Rừng trồng

92,6

422,3

583,6

744,9

1047,7

1.638,9

2.333,5

% độ che phủ rừng

33,8

32,1

29,9

27,8

28,2

34,2

37,0

Thay đổi tổng diện tích rừng:

Tăng(+, giảm (-)

Tỷ lệ tăng, giảm (%)

-561 (-1,7%)

 

 

 

 

 

 

-716,4 (-2,2%)

 

 

 

 

 

 

-716,3 (-2,1%)

 

 

 

 

 

 

+126,6 (+0,4%)

 

 

 

 

 

 

+2.012,4 (6,0%)

 

 

 

 

 

 

1.302,3 (2,8%)


  (Nguồn 3: Chương trình điều tra đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc 2001-2005, BộNN&PTNT, 9/2006).

 

Biểu 2 cho thấy, mặc dù  độ che phủ rừng toàn quốc thời kỳ 1990-1995 đã  biểu hiện chặn được đà giảm sút diện tích rừng kéo dài từ năm 1976, nhưng riêng rừng tự nhiên vẫn tiếp tục giảm -176,2 nghìn ha. Và thời kỳ sau đó 2000-2005 diện tích rừng tự nhiên ở vùng Tây nguyên và Đông Nam bộ vẫn giảm (Tây nguyên : -49,2 nghìn ha (-1,6%), Đông nam bộ:- 86,8 nghìn ha (-8,6%).

 Đến 2005, tổng trữ lượng gỗ trên toàn quốc có 811.678 nghìn m3, trong đó gỗ rừng tự nhiên chiếm 93,4%, gỗ rừng trồng chiếm 6,6%. Đối với rừng tự nhiên có 3 vùng có trữ lượng gỗ nhiều nhất là Tây nguyên 35,2% tổng trữ lượng gỗ toàn quốc, Bắc Trung bộ: 22,6% và Nam Trung bộ 16,1%.  Thời kỳ 1999-2005, diện tích rừng giàu giảm 6,5%, rừng trung bình8,3% và rừng nghèo 17,2% ( Nguồn 3).

Thuế tài nguyên chỉ là một trong những công cụ/chính sách của nhà nước để quản lý lâm nghiệp. Mặc dù với thuế xuất cao nhất so với các loại tài nguyên khác, nhưng thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên hầu như không có tác dụng điều tiết sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên rừng. Một câu hỏi đặt ra: căn cứ vào đâu mà nhà nước đã xác định mức thuế xuất cao như vậy? Để trả lời cho câu hỏi này cần lần theo lịch sử hình thành thuế tài nguyên đối với sản phẩm rừng tự nhiên. Khởi thủy là chế độ "Tiền bán khoán lâm sản" dưới chế độ thuộc địa Pháp, sau đến "Tiền bán lâm sản" của Chính phủ VNDCCH, tiếp là chế độ "Tiền nuôi rừng" và nay là "Thuế Tài nguyên"

 

3. Lược sử thuế tài nguyên với sản phẩm rừng tự nhiên ở nước ta.

3.1 Tiền bán khoán lâm sản

Dưới thời thuộc địa Pháp ( trước năm 1945) một trong những chính sách quan trọng để quản lý lâm nghiệp là chế độ " Tiền bán khoán lâm sản " (prix forfaitere de vent). Người khai thác gỗ rừng tự nhiên phải nộp cho Nhà nước thuộc địa một khoản tiền, gọi là tiền bán lâm sản, tính theo tỷ lệ quy định trên giá thị trường của gỗ, lâm sản. Tiền bán khoán lâm sản tạo ra một nguồn thu đáng kể cho ngân sách thuộc địa. Trong thời gian từ 1910 đến 1931 tổng tiền thu bán khoán lâm sản tăng từ 6 triệu đồng Đông Dương  lên gần 33 triệu đồng. Mục đích thu tiền bán khoán lâm sản cũng như các loại thuế khác là  thực hiện chính sách vơ vét bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp, chứ không phục vụ được bao nhiêu cho mục đích quản lý rừng. Trong báo cáo của viên toàn quyền Dume gửi về Pháp về tình hình Đông Dương từ năm 1897- 1910 có đoạn viết: " thu thuế kiểm lâm, yếu tố duy nhất để hạn chế sự khai thác tự do, tiếc thay không đủ chấm dứt tàn phá rừng". Và, trong một báo cáo của Tổng thanh tra Nông-lâm-mục súc Đông Dương (1931-1932), cũng viết : " Nói chung, cho đến nay việc khai thác rừng được quy định trên quan điểm thu thuế" ( nguồn 4: Lâm nghiệp Việt nam 1945-2000 Bộ NN&PTNT, Nguyễn văn Đẳng chủ biên, 2001, trang 14 và 18).

 Cần lưu ý là: thuế là hình thức thu phổ biến dưới chế độ thuộc địa, nhưng tại sao đối với sản phẩm rừng tự nhiên lại không gọi là thuế mà là bán khoán lâm sản ?

Trong kháng chiến chống Pháp, ở vùng tự do Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa cũng áp dung chế độ tiền bán khoán lâm sản.

 

3.2 Tiền bán lâm sản

Sau khi Chính phủ VNDCCH được thành lập năm 1945, năm 1947 BộCanh nông đã ban hành Nghị định số 300-B/BCN về ấn định cách tính tiền bán lâm sản ( đã bỏ từ bán khoán, thay bằng từ bán lâm sản- TG ) . Tiền bán lâm sản là một nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước.

 Đến năm 1954, liên bộ Canh nông-Tài chính ban hành nghị định ấn định cách tính tiền bán lâm sản ( Nghị định số 8-CN-TC-ND ngày 21/8/1954 của liên bộ Canh nông- Tài chính ấn định cách tính tiền bán lâm sản phải trả cho Chính phủ). Trong đó quy định: Những lâm sản trong rừng quốc gia là tài sản quốc gia; Người khai thác phải trả tiền Chính phủ, số tiền đó gọi là tiền bán lâm sản.  Nguyên tắc và phương châm thu là: Tăng thu cho quốc gia; Thực hiện bảo vệ rừng; và chiếu cố đến dân nghèo sinh sống bằng việc thu nhặt lâm sản.

Mức thu cho các loại lâm sản như sau:

a)      Các loại gỗ than củi:

Gỗ: gỗ đẹp và thiết mộc                  : 40% giá thị trường

      Gỗ hồng sắc                                  : 30%         -

      Gỗ tạp                                           :  25%        -

      Gỗ nghiến làm nông cụ                :  20%         -

      Than củi  …..                                :   20%       -

 

            b) Các loại tre nứa               :    15% giá thị trường

            c) Các loại khác

Mây , song               :     15%         -

Lá lợp nhà …           :     10%         -

 Một số các nghị định ban hành sau đó đã bổ sung danh mục và mức thu tiền bán lâm sản của một số lâm sản khác

Về căn cứ để ấn định giá ( tiền) bán lâm sản được giải thích là: " căn cứ một mặt vào giá vốn sản xuất lâm sản tại rừng (công trồng, công quản lý), một mặt căn cứ vào giá thị trường tại các địa phương … Bộ lấy theo giá trung bình ở những thị trường lâm sản quan trọng nhất  " ( điều 3, Nghị định số 1-ND-LB này 19/1/1956 của liện bộ Nông lâm- Tài chính-Tư pháp).

Chúng tôi không sưu tập được văn bản về tiền bán khoán lâm sản của thời Pháp thuộc, nhưng đã hỏi những công chức lâm nghiệp về Kiểm thu thời đó ( như Cụ Đắc- đã mất), được biết về tỷ lệ thu tiền bán lâm sản vẫn giữ nguyên như chế độ tiền bán khoán lâm sản của thời thuộc Pháp.

 Đến năm 1957 tiền bán lâm sản không tính theo thuế xuất thu trên giá thị trường mà chuyển sang quy định giá bán lâm sản tại các khu vực sản xuất ( Nghị định số 14 NL-ND-QT ngày 16-10-1957 của Bộ Nông lâm sửa đổi giá bán lâm sản về các loại gỗ củi than tại các khu vực sản xuất). Miền Bắc được chia thành 4 khu vực sản xuất, cùng một nhóm gỗ nhưng mức thu tiền bán lâm sản ở các khu vực khác nhau; khu vực gần thị trường tiêu thu giá cao hơn khu vực xa thị trường tiêu thụ. Nếu lấy khu vực I = 1, thì khu vực II: 0,96 và khu vực III: 0,93 và IV: 0,9. Gỗ được xếp thành 8 nhóm;  Tiền bán lâm sản của gỗ nhóm I là 1, thì nhóm IV: 0,15, nhóm VII: 0,09.

 

Hạng

Tên lâm sản

Đơn vị

Khu vực sản xuất

Thanh hóa, Nghệ án… Tuyên quang , Phú thọ

Sơn tây, Vĩnh phú………..Lạng sơn, Hồng quảng

Cao bằng, Bắc cạn, Hòa bình, Hải ninh…

Thái mèo, Hà giang, Lào cai…

1

Dạ hương, gụ mật….

Thước khối

65.000 đ

63.000 đ

61.000 đ

59.000 đ

2

 

 

 

 

 

 

…..

 

 

 

 

 

 

8

Bo bo , bồ kết…..

 

6.000 đ

5.500 đ

5.000 đ

4.500 đ

 

Củi cây, củi khúc

Xite

1.200 đ

1.200 đ

1.000 đ

 1000 đ

 

Đối với lâm sản phụ thì vẫn thu theo tỷ lệ % trên giá thị trường. Riêng đối với lâm sản phụ do nhân dân trồng trên công thổ chưa nộp thuế nông nghiệp thì thu 7% giá thị trường. Giá thị trường lâm sản phụ sẽ ấn định cho mỗi tỉnh, mỗi tháng một lần, do UBHC tỉnh quyết định.

Mức thu tiền bán lâm sản được sửa đổi một số lần, tương ứng với mỗi lần Nhà nước ấn định lại giá gỗ; theo xu hướng tăng dần tỷ trọng của khoản thu này trong giá gỗ để tạo thêm nguồn tài chính đầu tư cho lâm nghiệp.

 

3.3 Chế độ Tiền nuôi rừng

            Năm 1981, tiền bán lâm sản được chuyển sang chế độ thu tiền nuôi rừng ( Quyết định số 88/HDBT, ngày 24/9/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về thành lập Quỹ nuôi rừng). Như vậy tiền nuôi rừng được coi như chi phí tái tạo rừng, tương tự như chi phí về nguyên liệu chính của các sản phẩm công nghiệp khác, không phải là thuế ( in đậm là của TG).  Quỹ nuôi rừng chỉ được sử dụng để bảo vệ và phát triển rừng. Đối với các đơn vị lâm nghiệp trung ương được phân cấp giữ lại từ 30% -50% khoản thu để đầu tư cho công tác lâm nghiệp của đơn vị, còn nộp 50% cho Bộ để điều hòa chung toàn ngành. Tỷ trọng tiền nuôi rừng bình quân trong giá gỗ là 22,22% (1981). Mỗi lần điều chỉnh giá gỗ thì cũng điều chỉnh tiên nuôi rừng, năm 1987, tỷ trọng tiền nuôi rừng bình quân là 28% so với giá gỗ, năm 1988: 37%. Để mỗi lần điều chỉnh gía gỗ không phải điều chỉnh tiền nuôi rừng, ngày 20/7/1988 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 116/HDBT quy định mức thu tiền nuôi rừng bình quân là 37% của giá bán buôn công nghiệp.

Tiền nuôi rừng trong thời kỳ này là nguồn thu quan trọng của nhà nước để tạo vốn đầu tư cho lâm nghiệp. Tổng thu về tiền nuôi rừng toàn quốc trong thời kỳ 1986-1988 là 23.478, 9 triệu đ, bằng 91,22% tổng vốn đầu tư lâm sinh cùng kỳ (25.737 triệu đ), riêng vốn bằng quỹ nuôi rừng là 13.662 triệu đ, chiếm tỷ lệ 53% tổng vốn đầu tư lâm sinh ( nguồn 4: Số liệu thống kê lâm nghiệp 1986-1988 Bộ Lâm nghiệp, NXB Thống kê, 1989).  Thuế xuất của tiền nuôi rừng có xu hướng tăng thêm để bảo đảm nguốn vốn tự cân đối cho phát triển lâm nghiệp, theo quan niệm phổ biến không thành văn trong ngành lâm nghiệp là " lấy rừng nuôi rừng".

 

4.                  Như vậy, có thể thấy rằng của thuế xuất thuế tài nguyên của sản phẩm rừng tự nhiên 1991 có nguồn gốc  từ chế độ Tiền bán khoán lâm sản từ thời Pháp thuộc, có sửa đổi chút ít theo hướng tăng lên theo nhu cầu thu của ngân sách để  bảo đảm vốn đầu tư cho lâm nghiệp. Mặc dù trong một vài nghị định có nêu ra: tiền bán lâm sản " căn cứ một mặt vào giá vốn sản xuất lâm sản tại rừng (công trồng, công quản lý)", "tiền nuôi rừng được coi như chi phí tái tạo rừng, tương tự như chi phí về nguyên liệu chính của các sản phẩm công nghiệp khác, không phải là thuế". Nhưng, thực ra đó chỉ là lý thuyết và kinh nghiệm chứ không dựa trên một tính toán kinh tế có căn cứ khoa học nào.

 

5.                  Trong điều kiện nền lâm nghiệp nước ta đã có những biến đổi quan trọng trong thời kỳ Đổi mới, thuế xuất thuế tài nguyên rất cao của sản phẩm rừng tự nhiên là không còn phù hợp, cần được xây dựng lại, có thể khái quát theo biểu dưới đây:

 

Lĩnh vực

Thời kỳ 1991

Nay và tương lai

Quyền sở hữu và sử dụng rừng tự nhiên

- Rừng tự nhiên là tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân.

- Rừng tự nhiên được giao cho các LTQD và Ban QLR nhà nước  là chủ yếu

- Rừng tự nhiên là tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân.

-  Nhà nước giao rừng tự nhiên cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn. (Rút bớt một số diện tích rừng do quốc doanh lâm nghiệp quản lý để giao cho dân)

- Cho tổ chức, hộ gia đình thuê rừng tự nhiên.

- CácCông ty lâm nghiệp nhà nước và Ban quản lý giao khoán ổn định, lâu dài đất lâm nghiệp và rừng cho hộ gia đình, cá nhân

==> người dân có quyền kinh doanh và sở hữu sản phẩm rừng tự nhiên

 

Tính chất nền lâm nghiệp

- Lâm nghiệp nhà nước dưa trên quốc doanh là chủ yếu

- Kế hoạch hóa tập trung, bao cấp

- Xây dựng nền lâm nghiệp nhân dân, nhiều thành phần kinh tế

- Định hướng thị trường XHCN

- Hội nhập kinh tế quốc tế.

 

 

Tiếp tục duy trì mức thuế xuất thuế tài nguyên cao với sản phẩm rừng tự nhiên cao sẽ dẫn đến những bất cập sau đây:

(1)    Không khuyến khích kinh doanh rừng tự nhiên.

 Diện tích rừng tự nhiên sản xuất hiện có 3.105.647 ha, trong đó rừng giàu chỉ còn 652.672 ha, chiếm tỷ lệ 21%,  rừng nghèo và rừng non 2.453.002 ha, chiếm tỷ lệ 79% ( nguồn 3). Hiện nay không còn rừng tự nhiên để khai thác và thuần túy dựa vào tái sinh tự nhiên để phục hồi rừng như trước đây.  Muốn có sản phẩm rừng tự nhiên phải thực hiện kinh doanh rừng tự nhiên, với đối tượng rừng nghèo và rừng non phải đầu tư vốn dài hạn hàng chục đến vài chục năm. Nhà nước không còn bao cấp về vốn đầu tư, doanh nghiệp, và người dân phải sử dụng vốn vay để đầu tư. Với điều kiện đó mà phải chịu thuế cao, cộng với sự kiểm tra khai thác và vận chuyển lâm sản rừng tự nhiên nghiêm ngặt như hiện nay thì chắc hẳn chỉ làm nản lòng người dân và doanh nghiệp (kể cả quốc doanh) đầu tư kinh doanh rừng tự nhiên. Chính sách này chỉ khuyến khích thu nhặt sản phẩm rừng tự nhiên theo kiểu hái lượm. Tiềm năng sản xuất của rừng tự nhiên là không nhỏ. Trong khi đó kinh doanh rừng trồng chỉ phải chịu thuế sử dụng đất 4% sản lượng gỗ khai thác.

(2)     Đẩy các công ty lâm nghiệp kinh doanh rừng tự nhiên đến xu hướng ăn lạm vào vốn rừng do không đủ điều kiện tài chính để đầu tư tái sản xuất bảo đảm kinh doanh rừng bền vững. Do thuế tài nguyên chiếm khoảng 30% trong giá thành khai thác gỗ, phải nộp vào ngân sách, để bù đắp chi phí khai thác và lợi nhuận, doanh nghiệp thường cắt giảm tối đa chi phí đầu tư để phục hồi rừng sau khai thác, may lắm chỉ bố trí chi phí bảo vệ rừng, không có nguồn nào đầu tư cho diện tích rừng nghèo kiệt và rừng non cần phục hồi, tu bổ do công ty quản lý.

(3)    Nhà nước đã giao rừng và khoán cho hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư và ban hành chính sách hưởng lợi từ rừng để họ chuyển từ vị trí làm thuê sang làm chủ, hưởng hoa lợi từ kinh doanh rừng. Nhưng với thuế xuất cao như vậy thì lợi ích của họ như thế nào?. Ai cũng biết rằng năng xuất của rừng tự nhiên thấp, lượng tăng trưởng bình quân khoảng 1,5-2%/năm, sản lượng khai thác ổn định bình quân 1-1,5m3/ha/năm. Theo tính toán của chúng tôi, một hộ gia đình được giao 3 ha rừng tự nhiên nghèo kiệt, sau 10-15 bảo vệ và nuôi dưỡng mới được khai thác chính thì lợi ích thu được hàng năm từ rừng chỉ bằng lợi nhuận nuôi 1 con bò(!), chính vì vậy mà nông dân ít quan tâm đến rừng  tự nhiên được giao.

(4)    Người dân miền núi, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số sống dựa và nguồn lâm sản, khi gỗ hết thì  thu nhặt lâm sản ngoài gỗ là nguồn thu quan trọng. Nhưng thuế đánh cao từ 5-10%, tuy người mua gom phải nộp nên định gía mua thấp để bảo đảm có lãi, do đó người thu nhặt chỉ còn nhận được tiền công, không có chi phí để bảo vệ, tái tạo. Vì vậy nguồn lâm sản ngoài gỗ ngày càng cạn kiệt. Nhà nước nên thực hành chính sách "chiếu cố đến dân nghèo sinh sống bằng việc thu nhặt lâm sản" để phù hợp với chính sách xóa đói giảm nghèo ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

(5)     Thuế xuất thế tài nguyên rừng quá cao lại có tác dụng tiêu cực, kích thích khai thác lậu trốn thuế, đặc biệt với nhóm gỗ có giá trị cao tới hàng chục triệu đến vài chục triệu đồng /m3. Trốn được thuế tài nguyên rừng là thu được lợi nhuận siêu ngạch, nhất là trong điều kiện mất cân đối cung cầu gỗ rừng tự nhiên như hiện nay. Cuộc chiến chống khai thác, buôn lậu gỗ rừng tự nhiên của lực lượng kiểm lâm cam go và quyết liệt chính vì vậy.

(6)    Hiên nay nước ta phải nhập khẩu gần 4 triệu m3 gỗ nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ, chủ yếu để sản xuất đồ gỗ xuất khẩu, giá gỗ nhập khá cao và xu hướng tăng do giá dầu tăng, làm tăng chi phí vận tải. Với  chi phí nguyên liệu nhập khẩu lớn (< 1tỷ USD), thì giá trị gia tăng của ngành công nghiệp chế biến gỗ thấp. Nếu sản xuất gỗ nguyên liệu trong nước nhiều, giá gỗ nội địa thấp hơn sẽ nâng cao sức cạnh tranh của đồ gỗ VN, đồng thời tạo thêm nhiều công ăn việc làm trong ngành trồng, nuôi rừng, đóng góp vào nâng cao độ che phủ rừng, tăng khả năng phòng hộ và cải thiện môi trường sống.

 

 

Tài liệu tham khảo:

 

(Những văn bản về thuế tài nguyên)

  1. Pháp lệnh thuế tài nguyên, 1990
  2. Nghị định số 06/HDBT, ngày 7-1-1991, của Hội đồng Bộ trưởng Quy định chi tiết thi hành thuế tài nguyên
  3. Thông tư số TC/TCT, ngày 7/2/1991, củ BộTài chính Hướng dẫn chi tiết thi hành Pháp lệnh và Nghị định 06/HDBT của HDBT về thuế tài nguyên.
  4. Quyết định số 232/CT, này 13/7 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng về chuyển chế độ thu tiền nưôi rừng sang thuế tài nguyên.
  5. Thông tư số 69/TC/TCT, ngày 27/11/1991 của BộTài chính hướng dẫn việc chuyển chế độ thu tiền nuôi rừng sang thuế tài nguyên đối với khai thác sản phẩm rừng tự nhiên.
  6. Công văn số 375 TC/TCT/NV4, ngày 22/4/1992 của Bộ tài chính về việc giá tính thuế của sản phẩm rừng tự nhiên.
  7. Công văn số 1333/KTTC này 16/7 năm 1992 của BộLâm nghiệp về sử dụng thuế tài nguyên rừng tự nhiên.

(Những văn bản về tiền bán lâm sản)

  1. Công văn số 2322 ngày 11/12/1992 của Bộ tài chính về giá tính thuế tài nguyên gỗ tròn tự nhiên.
  2. Nghị định số 8-CN-TC-ND ngày 21/8/1954 của liên bộ Canh nông- Tài chính ấn định cách tính tiền bán lâm sản phải trả cho Chính phủ.
  3. Nghị định số 9 CN-TC-ND ngày 23/10/1954 của liên bộ Canh nông -Tài chính bổ khuyết Nghị định số 8 CN-TC-ND ngày 21/8/1954 ấn định cách tính tiền bán lâm sản.
  4. Nghị định số 1ND-LB ngày 19-1- 1956 của liên bộ Nông lâm-Tư pháp-Tài chính bổ khuyết nghị định số 8 CN-TC-ND ngày 21/8/1954 và Nghị định số 8 ND CN-TC-ND ngày 23/10/1954 về điều lệ kiểm thu lâm sản
  5. Nghị định số 14 NL-ND-QT ngày 16-10-1957 của BộNông lâm sửa đổi giá bán lâm sản về các loại gỗ củi than tại các khu vực sản xuất.
  6. Nghị định số 2 ND-LB ngày 19-10-1957 liên bộ Nông lâm-Tài chính quy định thêm một số lâm sản phụ phải trả tiền bán.
  7. Lâm nghiệp Việt nam 1945-2000, Chủ biên Nguyễn văn Đẳng, Bộ NN&PTNT, NXB Nông nghiệp, 2001

(Những văn bản về Tiền nuôi rừng)

      15.Quyết định số 88/HDBT, ngày 24/9/1981 của Hội đồng Bộ trưởng về thành lập Quỹ           nuôi rừng.

      16. Quyết định số 116/HDBT, ngày 20/7/1988 Hội đồng Bộ trưởng quy định mức thu tiền nuôi rừng.

      17. Thông tư số 27/TT-LB ngày 30/10/1988 của liên bộ Lâm nghiệp-Tài chính hướng dẫn thực hiện quyết định số 116/HDBT ngày 20-7-1988 của HDBT về sửa đổi mức thu tiền nuôi rừng và phương thức quản lý sử dụng tiền nuôi rừng.

(Các tài liệu khác)

      18. Báo cáo Tình hình thị trường và giá cả lâm sản Việt nam, Vũ Long và cộng sự, 3/1998.

      19. Báo cáo tổng hợp kết quả Chương trình điều tra đánh giá và theo dõi diễn biến tài nguyên rừng toàn quốc thời kỳ 2001-2005,Bộ NN&PTNT, 9/2006.

      20.Diện tích, trữ lượng rừng và đất chưa sử dụng quy hoạch cho lâm nghiệp, Bộ NN&PTNT, 6/2006

      21. Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Bộ NN&PTNT, 2005

 

                                                                                    Vũ Long

                                                                        DT: 04.7562389; DD: 0945466799

                                                                        E-mail: vulongvinh@yahoo.com

 

Các văn bản liên quan