Gợi ý thảo luận trong Hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Luật Bồi thường nhà nước

Thứ Tư 17:13 04-06-2008


GỢI Ý THẢO LUẬN


 
I. MỤC TIÊU BAN HÀNH LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Việc xây dựng Luật này nhằm đạt được các mục tiêu chủ yếu sau đây:

1. Thể chế hoá một cách đầy đủ, đồng bộ và kịp thời các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc tăng cường trách nhiệm nói chung và trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nói riêng đối với các thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân; 

2. Tạo ra cơ chế thuận lợi để bảo đảm thực hiện quyền được bồi thường của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra đã được Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và các đạo luật khác có liên quan quy định; 

3. Phân định giới hạn, mức độ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và cá nhân cán bộ, công chức có hành vi trái pháp luật gây ra thiệt hại nhằm góp phần nâng cao trách nhiệm của người thi hành công vụ, tạo tâm lý yên tâm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ, qua đó góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.

III. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

Ngoài việc tuân thủ các nguyên tắc chung, phổ biến như phải thể chế hoá kịp thời và đầy đủ các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về các vấn đề liên quan đến trách nhiệm của người thi hành công vụ nói riêng và của Nhà nước nói chung đối với các thiệt hại gây ra cho nhân dân; bảo đảm tính thống nhất đồng bộ của Luật Bồi thường nhà nước với các đạo luật khác có liên quan (Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự…), việc xây dựng Luật này còn phải tuân thủ những nguyên tắc có tính đặc thù sau đây:

1. Việc xây dựng Luật Bồi thường nhà nước phải xuất phát từ quan điểm, theo đó, trách nhiệm bồi thường nhà nước là một hình thức trách nhiệm dân sự đặc thù

Nhà nước khi tham gia vào các quan hệ pháp luật thì có thể mang tư cách là một chủ thể thông thường (chủ thể của pháp luật tư) và tư cách của chủ thể của quyền lực công (chủ thể của pháp luật công). Những quan hệ pháp luật mà Nhà nước tham gia với tư cách là chủ thể của quyền lực công không phải là những quan hệ dân sự. Những quan hệ pháp luật này là những quan hệ pháp luật có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc về chức năng quản lý, điều hành, mang tính quyền lực của Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện những hoạt động này mà Nhà nước gây thiệt hại cho các cá nhân, tổ chức thì giữa Nhà nước và bên bị thiệt hại phát sinh một quan hệ pháp luật mới, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường các thiệt hại đã gây ra. Quan hệ pháp luật này, xét về bản chất là quan hệ dân sự mặc dù nó phát sinh từ hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Việc thừa nhận tính chất dân sự của quan hệ bồi thường nhà nước là vấn đề lý luận cơ bản, chi phối nội dung của chế định pháp lụât này. Vì vậy, tính chất dân sự của quan hệ bồi thường nhà nước cần được coi là một nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng Luật Bồi thường nhà nước.

Đặc thù của chế định trách nhiệm bồi thường nhà nước so với chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thông thường đó là địa vị pháp lý của chủ thể gây thiệt hại và chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm bồi thường nhà nước phát sinh là do hậu quả của hoạt động công vụ, do đó, ngoài việc áp dụng các quy định chung của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải áp dụng các quy định pháp luật về hành chính và tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước để giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu bồi thường nhà nước.

2. Bảo đảm các quy định của Luật Bồi thường nhà nước phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước

Để đảm bảo tính khả thi của Luật Bồi thường nhà nước, các quy định của Luật cần được thiết kế phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Muốn đạt được mục tiêu này, dự thảo Luật cần phải cân nhắc nhiều vấn đề, trong đó nổi cộm nhất là vấn đề về phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, cụ thể là:

Thứ nhất, cần phải xác định một cách hợp lý các lĩnh vực hoạt động mà Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Quán triệt yêu cầu này, dự thảo Luật Bồi thường nhà nước chỉ quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính, thi hành án và hoạt động tố tụng hình sự; chưa quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng pháp luật (lập pháp, lập quy) và các hoạt động tố tụng phi hình sự (tố tụng dân sự, tố tụng hành chính).

Thứ hai, Phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước theo quy định của Luật Bồi thường nhà nước được giới hạn thông qua việc xác định cụ thể các trường hợp được bồi thường. Như vậy, không phải tất cả các thiệt hại do các hành vi trái pháp luật được thực hiện trong các lĩnh vực quản lý hành chính, thi hành án và tố tụng hình sự đều được bồi thường theo quy định của Luật này mà cơ chế bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Bồi thường nhà nước chỉ áp dụng đối với các trường hợp được liệt kê trong Luật này.

3. Kế thừa các ưu điểm của Nghị quyết 388

Nghị quyết 388 đã phát huy hiệu lực và có tác động tích cực trên thực tế, chứng tỏ nhiều quy định của Nghị quyết này là phù hợp với tình hình thực tiễn nước ta. Do đó Luật Bồi thường nhà nước cần phải kế thừa những ưu điểm của Nghị quyết này, đồng thời phải khắc phục những hạn chế, bổ sung các quy định mới để chế định trách nhiệm bồi thường nhà nước trở nên phù hợp, khả thi, hiệu quả hơn sau khi được ban hành.

IV. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA DỰ THẢO LUẬT BỒI THƯỜNG NHÀ NƯỚC

1. Về phạm vi điều chỉnh

Dự thảo Luật quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước cho cá nhân, tổ chức đối với các thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong 3 lĩnh vực hoạt động là: (1) quản lý hành chính nhà nước, (2) thi hành án và (3) tố tụng hình sự. Như vậy, cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động xây dựng pháp luật (lập pháp, lập quy) và trong hoạt động tố tụng dân sự, tố tụng hành chính không thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật Bồi thường nhà nước, tức là sẽ chưa được Nhà nước bồi thường theo Luật này.

2. Về đối tượng áp dụng

Dự thảo Luật quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được áp dụng đối với mọi cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra mà không phân biệt cá nhân, tổ chức trong nước hay ngoài nước.

3. Về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước

Để có căn cứ đầy đủ, thống nhất cho việc xác định trách nhiệm bồi thường  của Nhà nước, dự thảo Luật quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước bao gồm 06 yếu tố, trong đó có 04 yếu tố chung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng và 02 yếu tố đặc thù, cụ thể là: (1) Có thiệt hại xảy ra đối với cá nhân, tổ chức; (2) Chủ thể gây ra thiệt hại là người thi hành công vụ; (3) Có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ được xác định theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trừ các trường hợp trách nhiệm bồi thường nhà nước được xác định không căn cứ vào yếu tố có hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ theo quy định của Luật này; (4) Hành vi được thực hiện trong khi thi hành công vụ; (5) Người thi hành công vụ có lỗi vô ý hoặc cố ý, trừ các trường hợp trách nhiệm bồi thường nhà nước được xác định không căn cứ vào yếu tố lỗi theo quy định của Luật này; (6) Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra.

4. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án

Vấn đề này được dự thảo Luật xác định trên nguyên tắc chỉ có hành vi công vụ nào mang tính phổ biến, có khả năng gây thiệt hại trực tiếp đến tính mạng, sức khoẻ, quyền tự do thân thể, quyền tự do kinh doanh, tự do sở hữu và các quyền tài sản cơ bản khác của cá nhân, tổ chức mà người thi hành công vụ đã có hành vi trái pháp luật, có lỗi và gây ra thiệt hại thì Nhà nước mới phải bồi thường, cụ thể là: 

- Trong hoạt động quản lý nhà nước, phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước được giới hạn trong 10 nhóm hành vi công vụ (Điều 10);

- Trong hoạt động thi hành án, phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước được giới hạn trong 08 nhóm hành vi công vụ (Điều 11).

5. Về phạm vi trách nhiệm bồi thường nhà nước trong hoạt động tố tụng hình sự

Dự thảo Luật đã giải quyết vấn đề này trên cơ sở không chỉ phát điển hoá các quy định về bồi thường thiệt hại do oan trong Nghị quyết 388 mà còn bổ sung một số trường hợp mới, theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường đối với các thiệt hại do sai gây ra trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, phức tạp, nhạy cảm, do đó cần quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại do sai gây ra theo hướng rất hạn chế và chặt chẽ. Để thực hiện được tư tưởng chỉ đạo này, dự thảo Luật tại khoản 2, Điều 29 đã ghi nhận một số cơ chế để hạn chế phạm vi bồi thường của Nhà nước đối với thiệt hại do sai gây ra, đó là:

Thứ nhất, dự thảo quy định, tính trái pháp luật của hành vi do người thi hành công vụ thực hiện phải được khẳng định bằng một bản án, quyết định của cơ quan tố tụng hình sự có thẩm quyền;

Thứ hai, lỗi của người gây ra thiệt hại phải là lỗi cố ý.

6. Về cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước

Dự thảo Luật xác định cơ quan này là cơ quan trực tiếp quản lý, sử dụng người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại (Điều 18 và Điều 33). Để khắc phục tình trạng người bị thiệt hại không thể thực hiện được việc yêu cầu bồi thường thiệt hại do không xác định được cơ quan có trách nhiệm giải quyết bồi thường như hiện nay, dự thảo Luật đã đưa ra một số quy định mới (Điều 19 và khoản 2 Điều 33), theo đó, cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước (theo quy định của dự thảo Luật là Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp) có trách nhiệm chủ trì phối hợp với các cơ quan khác có liên quan để xác định cụ thể cơ quan nào có trách nhiệm giải quyết việc bồi thường. Ngoài ra, để việc giải quyết bồi thường được tiến hành một cách thuận lợi, dự thảo Luật đã quy định rõ hơn về các quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơ quan này (Điều 20), đồng thời xác định rõ trách nhiệm hỗ trợ, phối hợp của các cơ quan nhà nước khác có liên quan, nhất là cơ quan quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước ( khoản 3, Điều 21)

7. Về cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động bồi thường nhà nước

Do hoạt động bồi thường nhà nước được xem là một nhiệm vụ mới của nhà nước, nên dự thảo Luật có quy định về nội dung quản lý và cơ quan có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với hoạt động này (Điều 7 và Điều 8). Việc quy định về cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động bồi thường nhà nước sẽ góp phần khắc phục được hạn chế hiện nay là, do không có cơ quan nào được giao thực hiện trách nhiệm này nên việc xây dựng, ban hành, phổ biến và tổ chức, hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về trách nhiệm bồi thường nhà nước; hướng dẫn nghiệp vụ giải quyết bồi thường nhà nước; theo dõi, thống kê các vụ việc thực hiện trách nhiệm bồi thường nhà nước, báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền; thanh tra, kiểm tra về giải quyết bồi thường nhà nước trong thời gian qua đã gặp nhiều khó khăn, làm hạn chế hiệu quả của chế định bồi thường nhà nước.
Ngoài ra, việc quy định mới về cơ quan quản lý bồi thường nhà nước sẽ giúp khắc phục được hạn chế hiện nay là việc bồi thường thuộc trách nhiệm của cơ quan nào thì chỉ có cơ quan đó biết và tự mình tìm biện pháp giải quyết mà không có bất cứ sự giúp đỡ, hỗ trợ, giám sát nào của các cơ quan nhà nước khác có liên quan. Nay, nhờ có sự hiện diện của cơ quan quản lý nhà nước với các quyền và nghĩa vụ cụ thể đã được xác định trong mối quan hệ với cơ quan giải quyết bồi thường mà tình trạng khép kín, thiếu sự công khai, minh bạch trong hoạt động giải quyết bồi thường nhà nước đã xảy ra trong thời gian qua sẽ được khắc phục. 

8.  Về nguyên tắc giải quyết bồi thường

Dự thảo Luật quy định về vấn đề này theo hướng áp dụng các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của pháp luật dân sự, có bổ sung thêm một số quy định đặc thù (Điều 6), cụ thể là: thiệt hại về vËt chÊt thùc tÕ được bồi thường toàn bộ; thiệt hại do tổn thất vÒ tinh thÇn chỉ ®­îc båi th­êng đối với một số trường hợp nhất định, theo møc đã được Luật này quy ®Þnh (Điều 15 và khoản 1 Điều 32 của dự thảo Luật).

9. Về các thiệt hại được bồi thường

Để khắc phục tình trạng bất đồng ý kiến giữa người bị hại và cơ quan giải quyết bồi thường như hiện nay, Dự thảo Luật quy định cụ thể các loại thiệt hại được Nhà nước bồi thường, bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm (Điều 13), thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút (Điều 14), thiệt hại do tổn thất về tinh thần (Điều 15), thiệt hại về vật chất trong trường hợp tính mạng bị xâm phạm (Điều 16) và thiệt hại về vật chất trong trường hợp bị tổn hại về sức khoẻ (Điều 17). Một điểm mới nữa của Luật là ở chỗ, các thiệt hại do tổn thất về tinh thần được Nhà nước bồi thường không chỉ trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà còn cả trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước và thi hành án. Mức bồi thường cho các thiệt hại do tổn thất về tinh thần được dự thảo Luật quy định trên cơ sở tiếp thu các quy định tại Nghị quyết 388.

10. Về thủ tục giải quyết bồi thường nhà nước

- Dự thảo Luật kế thừa quy định của Nghị quyết 388, theo đó, thủ tục giải quyết bồi thường nhà nước được quy định gồm thủ tục giải quyết tại cơ giải quyết bồi thường nhà nước (cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ gây ra thiệt hại) và thủ tục giải quyết tại cơ quan giải quyết khiếu nại và tại Tòa án. Cái mới của dự thảo luật là ở chỗ, dự thảo đã quy định thủ tục giải quyết tại cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước là một khâu có tính chất bắt buộc. Thực chất đây là một quy trình thương lượng đặc thù để người bị thiệt hại có thể đạt được yêu cầu bồi thường thiệt hại mà không phải khởi kiện ra Toà án, gây tốn kém và lãng phí thời gian. Mặt khác, việc bắt buộc phải thương lượng cũng sẽ làm tăng trách nhiệm của cơ quan nhà nước đã gây ra thiệt hại, đề cao trách nhiệm của Nhà nước trước nhân dân. Ngoài ra, thông qua thủ tục bắt buộc này, cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước sẽ có điều kiện nắm rõ hơn các tình tiết của vụ việc, trên cơ sở đó có thể thực hiện tốt vai trò là bị đơn trong trường hợp người bị thiệt hại khởi kiện ra Toà án đòi bồi thường (các điều 23, 24, 36 và 37);

- Để tạo thuận lợi cho người bị hại trong việc giải quyết bồi thường, dự thảo Luật đã quy định nhiều cơ chế để họ lựa chọn. Cụ thể là, trong trường hợp cơ quan quản lý trực tiếp người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại không thừa nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình, do đó không thừa nhận trách nhiệm bồi thường thì người bị thiệt hại có quyền khiếu nại ra cơ quan hành chính cấp trên để yêu cầu xác nhận tính bất hợp pháp của hành vi hành chính hoặc quyết định hành chính, đồng thời giải quyết luôn cả việc bồi thường thiệt hại (khoản 2, Điều 25). Trường hợp không đồng ý với quyết định của cơ quan giải quyết khiếu nại thì người bị hại có quyền khởi kiện ra Toà hành chính và trong trường hợp này người bị hại cũng có quyền tương tự. Đặc biệt là khi các cơ quan này (cơ quan giải quyết khiếu nại và Toà hành chính) chậm trễ trong việc giải quyết yêu cầu bồi thường thì dự thảo Luật quy định cho phép người bị hại có quyền yêu cầu cơ quan quản lý trực tiếp người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại thực hiện việc bồi thường sau khi đã có văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác nhận về tính trái pháp luật của hành vi do người thi hành công vụ thực hiện (khoản 5, Điều 25).

- Về nghĩa vụ chứng minh, dự thảo Luật đã đưa ra một số quy định mới có tính đặc thù, theo đó, cơ quan giải quyết bồi thường nhà nước có nghĩa vụ chứng minh về việc người thi hành công vụ không thực hiện hành vi trái pháp luật và không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại (Điều 28);

11.  Về kinh phí bồi thường.

Dự thảo Luật quy định kinh phí bồi thường được sử dụng từ ngân sách nhà nước và có chia ra hai cấp ngân sách cho hai trường hợp: (1) Kinh phí bồi thường cho những thiệt hại do người thi hành công vụ của cơ quan nhà nước ở Trung ương gây ra được lấy từ ngân sách ở trung ương; (2) Kinh phí bồi thường cho những thiệt hại do người thi hành công vụ của cơ quan nhà nước ở địa phương gây ra được lấy từ ngân sách ở địa phương.

12. Về trách nhiệm hoàn trả

Trách nhiệm hoàn trả là một vấn đề quan trọng, liên quan đến lợi ích của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại, do đó dự thảo Luật đã dành một chương (Chương V) để quy định. Tại chương này giải quyết một số vấn đề cơ bản sau đây:

- Về yêu cầu hoàn trả, dự thảo Luật quy định theo hướng hoàn trả là quyền yêu cầu của phía Nhà nước. Điều này có nghĩa là, hoàn trả không phải là trách nhiệm đương nhiên của người thi hành công vụ đã gây ra thiệt hại. Họ chỉ có nghĩa vụ thực hiện việc hoàn trả trong trường hợp có yêu cầu của Nhà nước (Điều 43);

- Về phạm vi trách nhiệm hoàn trả, dự thảo Luật quy định không áp dụng trách nhiệm hoàn trả đối với người thi hành công vụ mà có lỗi vô ý gây ra oan trong hoạt động tố tụng hình sự;

- Về xác định mức hoàn trả, dự thảo Luật quy định người thi hành công vụ phải hoàn trả toàn bộ trong trường hợp có lỗi cố ý (khoản 1, Điều 45). Đối với các trường hợp khác, mức hoàn trả được xác định căn cứ vào các yếu tố: Mức độ lỗi của người thi hành công vụ; mức độ nghiêm trọng của thiệt hại đã gây ra; khả năng kinh tế của người thi hành công vụ (khoản 2, Điều 45).

VI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN XIN Ý KIẾN CHÍNH PHỦ

Hiện nay, tuyệt đại đa số các vấn đề liên quan đến nội dung cơ bản của dự thảo Luật Bồi thường nhà nước đã được sự đồng thuận cao của các thành viên Ban Soạn thảo. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề còn có ý kiến khác nhau cần xin ý kiến chỉ đạo của Chính phủ như sau:

1. Về cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực bồi thường nhà nước

Như phần trên đã trình bày, một trong những điểm mới của dự thảo Luật Bồi thường nhà nước là ở chỗ, Luật này đã xác lập một cơ quan nhà nước có chức năng quản lý đối với công tác bồi thường nhà nước. Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn hai ý kiến khác nhau liên quan đến việc cần giao nhiệm vụ này cho bộ nào.

Ý kiến thứ nhất cho rằng, nên giao cho Bộ Tư pháp vì:

Một là, giải quyết bồi thường nhà nước thực chất là hoạt động áp dụng pháp luật để làm sáng tỏ hai vấn đề cơ bản, đó là: (1) Xác định trách nhiệm bồi thường nhà nước có phát sinh hay không (thông qua việc đánh giá 06 yếu tố phát sinh trách nhiệm bồi thường nhà nước); (2) Xác định thiệt hại và mức bồi thường cụ thể trên cơ sở đánh giá các thiệt hại thực tế theo nguyên tắc của pháp luật dân sự. Việc giải quyết được hai vấn đề này đều liên quan đến kiến thức pháp lý và kinh nghiệm vận dụng pháp luật. Hiện nay, cơ quan tư pháp (Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp) là cơ quan được Nhà nước giao trách nhiệm quản lý chung về công tác pháp luật, do đó có điều kiện để thực hiện các công việc liên quan đến công tác quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước. Vì vậy, việc giao các cơ quan tư pháp thực hiện chức năng này là hợp lý;

Hai là, theo kinh nghiệm của nhiều nước thì vai trò này cũng đều được giao cho cơ quan tư pháp ở trung ương và địa phương thực hiện (Ví dụ: Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa kỳ, Canada).

Ý kiến thứ hai cho rằng, nên giao cho Thanh tra Chính phủ vì Thanh tra Chính phủ là cơ quan trực tiếp giải quyết khiếu nại đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính nên có điều kiện nắm bắt được tình hình vi phạm pháp luật của người thi hành công vụ.

Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng không nên giao nhiệm vụ này cho Thanh tra Chính phủ vì: (1) chức năng cơ bản của Thanh tra Chính phủ là bảo đảm trật tự quản lý hành chính nhà nước, trong khi đó, việc giải quyết bồi thường nhà nước lại là hoạt động có mục tiêu cơ bản là bảo đảm quyền được bồi thường của người bị thiệt hại theo nguyên tắc của pháp luật dân sự, do đó, nếu giao cho Thanh tra Chính phủ là không phù hợp với chức năng nêu trên của Thanh tra Chính phủ; (2) nội dung quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước (Điều 7) bao gồm một số hoạt động mà xét về tính chất và nội dung thì Thanh tra Chính phủ ít có điều kiện để thực hiện. Như vậy nếu giao chức năng quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước cho Thanh tra Chính phủ thì sẽ gây khó khăn cho cơ quan này trong quá trình thực thi.

Dự thảo quy định về vấn đề này trên cơ sở ủng hộ ý kiến thứ nhất (Điều 8).

2. Về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với các thiệt hại do sai gây ra trong tố tụng hình sự

Về vấn đề này hiện còn hai ý kiến khác nhau.

Ý kiến thứ nhất cho rằng, Dự thảo Luật cần quy định Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường không chỉ đối với thiệt hại do oan mà còn đối với thiệt hại do sai gây ra trong tố tụng hình sự với lý do là:

Một là, phù hợp với quan điểm của Đảng được thể hiện trong các văn kiện như: Chỉ thị số 53-CT/TW ngày 21/03/2000 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị.

Hai là, việc mở rộng phạm vi bồi thường này sẽ góp phần chấn chỉnh, khắc phục những yếu kém, sai sót trong hoạt động tố tụng hình sự, giảm bớt những bức xúc do tình trạng oan, sai trong dư luận nhân dân hiện nay;

Ba là, quy định này phúc đáp được nguyện vọng chính đáng của người bị hại là mọi thiệt hại, bất luận là do oan hay do sai gây ra đều phải được Nhà nước bồi thường thoả đáng. 

 Ý kiến thứ hai không đồng ý quan điểm này với lý do:

Một là, việc mở rộng phạm vi bồi thường nên được thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ;

Hai là, vừa qua đã có sự tổng kết bước đầu ba năm thực hiện Nghị quyết 388 và Thông tư 01 (năm 2006) hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 388 nhưng các cơ quan tố tụng hình sự cũng chưa đề cập đến việc bồi thường do sai gây ra.
Dự thảo Luật quy định về vấn đề này trên cơ sở ủng hộ ý kiến thứ nhất.

3. Về mức bồi thường đối với thiệt hại do tổn thất về tinh thần trong lĩnh vực quản lý hành chính và thi hành án

Kế thừa quy định của Nghị quyết 388, dự thảo Luật đã quy định về việc Nhà nước có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại do tổn thất về tinh thần gây ra không chỉ trong tố tụng hình sự mà còn trong cả hoạt động quản lý hành chính và thi hành án. Tuy nhiên, về vấn đề mức bồi thường trong hai lĩnh vực này thì hiện nay còn hai ý kiến khác nhau.

Ý kiến thứ nhất cho rằng, nên quy định mức bồi thường phải là khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau, theo hướng mức bồi thường trong quản lý hành chính nhà nước và thi hành án phải thấp hơn trong tố tụng hình sự vì tổn thất về tinh thần trong lĩnh vực tố tụng hình sự thường là nghiêm trọng hơn so với trong các lĩnh vực khác.

Ý kiến thứ hai cho rằng, nên quy định mức bồi thường là giống nhau trong tất cả các lĩnh vực này và mức đó là mức đã được quy định trong Nghị quyết 388 vì những lý do như sau:

Một là, quy định này đảm bảo tính ổn định trong chính sách bồi thường của nhà nước ta; nếu thay đổi thì sẽ gây ra dư luận không có lợi trong nhân dân;

Hai là, quy định này phù hợp với quan điểm về việc Nhà nước cần phải bồi thường như nhau cho các thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau, không phân biệt đó là lĩnh vực tố tụng hình sự hay lĩnh vực hoạt động nào khác của Nhà nước.

Dự thảo Luật quy định về vấn đề này trên cơ sở ý kiến thứ nhất.
 

Các văn bản liên quan