Một số đóng góp cho các báo cáo rà soát luật thuế GTGT – ThS. Trần Vũ Hải

Thứ Sáu 01:56 16-09-2011


Về báo cáo rà soát Luật Thuế GTGT 


Thứ nhất , về đề xuất áp dụng 1 mức thuế suất:


Theo dự thảo về Phương án 2:  Áp dụng thống nhất một thuế suất thống nhất 10%. Trong đó, dự thảo cho rằng việc áp dụng một mức thuế suất cần cân nhắc vì nếu áp dụng sớm, cần tính toán cụ thể phương án : giá thành, giá bán, chi phí, lỗ lãi của các cơ sở đang sản xuất kinh doanh mặt hàng có chuyển đổi thuế suất để tránh ảnh hưởng nhiều đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.


Tôi xin được bổ sung: Lý do đưa ra để có 2 mức thuế suất từ trước đến nay nhìn từ lợi ích của doanh nghiệp là không thỏa đáng, vì về bản chất thuế GTGT là thuế do người tiêu dùng phải chịu chứ doanh nghiệp không phải chịu, nên cần tiếp cận theo hướng khuyến khích người tiêu dùng: mặt hàng nào cần khuyến khích tiêu dùng, lý do vì sao,  chứ không phải chỉ khuyến khích doanh nghiệp.


Thứ hai , về bất cập trong khấu trừ thuế GTGT do sai sót:


Báo cáo cho rằng, do khấu trừ chậm nên người nộp thuế đã thiệt thòi, nay khâu trước đã nộp khâu sau không được khấu trừ (vì quá thời hạn 6 tháng) là bất cập. Đề nghị nới rộng như thời hạn xử phạt vi phạm hành chính về thuế là  2 năm.


Tôi cho rằng: Cần phân biệt 2 trường hợp: có lỗi của người nộp thuế hay không có lỗi của người nộp thuế. Cần phải quy định thời hạn ngắn để đảm bảo người nộp thuế phải có trách nhiệm đối với việc kê khai, nếu không doanh nghiệp sẽ phải chịu thiệt. Trong trường hợp không có lỗi của người nộp thì nên để thời gian dài hơn, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của họ.


Thứ ba , về đề nghị cho doanh nghiệp khấu trừ khi không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đúng hạn, nếu phát hiện doanh nghiêp thanh toán tiền mặt thì sẽ phạt vi phạm pháp luật về thuế .

 

Cá nhân tôi không đồng ý với quan điểm này. Vì như thế sẽ rất khó cho cơ quan thuế trong việc kiểm tra, đặc biệt trong cơ chế tự khai tự nộp như hiện nay. Việc kiểm tra hành chính thường được thực hiện hơn theo nguyên tắc: người bị kiểm tra phải chứng minh đã có những chứng từ bắt buộc (hệ quả: nếu người nộp thuế không xuất trình thì coi như không có), chứ không phải cơ quan kiểm tra phải chứng minh người bị kiểm tra không có những chứng từ bắt buộc để xử phạt (khi đó hệ quả sẽ là: nếu cơ quan thuế không chứng minh được thì coi như có). Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp có động cơ ”thách đố” cơ quan quản lý nhà nước về thuế.

Thứ tư , về đề xuất có thể  thực hiện theo phương án  giá  tính thuế  được tính trực tiếp trên cơ sở hạ tầng, không tính trên tổng giá trị trừ giá đất.

Tôi đồng ý với quan điểm này. Tôi xin được bổ sung để làm rõ hơn ở hai điểm: (i) Hàng hóa bất động sản đương nhiên gắn liền với đất, do đó cần tiếp cận đất đai là yếu tố đầu vào cần thiết để gia tăng giá trị hàng hóa. Thực tế cho thấy: giá đất đối với các dự án bất động sản rất khác nhau do thời điểm giao đất, vị trí địa lý trước khi xây dựng, thậm chí là do việc ai sẽ là người đứng ra bồi thường giải phóng mặt bằng (nhà nước hay chủ đầu tư?). Do đó, giá tính thuế không nên trừ đi giá đất để tránh sự phức tạp khi xác định giá đất, đồng thời đảm bảo thể hiện bản chất của thuế GTGT là đánh trên phần GTGT của hàng hóa. (ii) Nếu trừ đi giá đất trước khi tính thuế là mặc nhiên công nhận đất đai là đối tượng đánh thuế GTGT vì việc trừ đi này tương tự như đánh thuế bằng phương pháp trực tiếp, trong khi chuyển quyền sử dụng đất là trường hợp không phải chịu thuế.

Thứ năm , về đề xuất áp dụng một phương pháp tính thuế GTGT và áp dụng thu thuế theo ngưỡng doanh thu.

Về kiến nghị này tôi cho rằng cần cân nhắc vì những lý do sau đây:

1. Nếu áp dụng ngưỡng doanh thu một cách phổ biến sẽ đánh mất bản chất của thuế GTGT là đánh vào giá trị tăng thêm chứ không phải là doanh thu.

2. Việc bắt buộc áp dụng phương pháp khấu trừ dẫn đến việc bắt buộc sử dụng hóa đơn GTGT cho những đối tượng chưa đạt chuẩn về hệ thống kế toán, sổ sách, hóa đơn chứng từ. Như vậy có đảm bảo cho cơ quan thuế kiểm soát được tính chính xác của kê khai, cũng như phát hiện và xử lý những gian lận liên quan đến hóa đơn GTGT hay không?

Cá nhân tôi cho rằng: nên giữ 2 phương pháp tính thuế, nhưng xác định rõ các tiêu chí người nộp thuế để áp dụng (mô hình kinh doanh, quy mô kinh doanh, doanh thu hoặc các tiêu chí khác). Cần xác định các tiêu chí và yêu cầu đối với những trường hợp nộp thuế khoán trong Luật Quản lý thuế để dễ áp dụng đối với trường hợp thuế GTGT.

Thứ sáu , một vấn đề cần được bổ sung trong rà soát Luật Thuế GTGT chính là vấn đề hóa đơn, chứng từ. Hiện nay việc thực hiện cơ chế quản lý hóa đơn theo Nghị định 51/2010/NĐ-CP bộc lộ nhiều bất cập ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý thuế GTGT nên cần được rà soát và đưa vào báo cáo các đánh giá cần thiết.

 

 

Các văn bản liên quan