VCCI góp ý Dự thảo Nghị định về đăng ký doanh nghiệp

Thứ Ba 15:15 21-04-2015

Kính gửi: Cục Quản lý đăng ký kinh doanh

        Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trả lời Công văn số 1599/BKHĐT-ĐKKD của Bộ Kế hoạch và Đầu tư ngày 24/03/2015 về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định về đăng ký doanh nghiệp (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở góp ý của các doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

Một trong những điểm sửa đổi quan trọng của Luật doanh nghiệp năm 2014 so với Luật hiện hành là về các thủ tục đăng ký doanh nghiệp, theo hướng đơn giản, thuận lợi, tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục. Nghị định hướng dẫn Luật doanh nghiệp năm 2014 về đăng ký doanh nghiệp được kỳ vọng là sẽ chi tiết hóa và qua đó hiện thực hóa tinh thần tiến bộ nói trên trong thực tiễn áp dụng Luật mới.

Vì vậy, các quy định trong Nghị định về đăng ký kinh doanh cần đảm bảo ít nhất các yêu cầu sau:

-         Tuân thủ chính xác, chặt chẽ các nguyên tắc trong Luật Doanh nghiệp 2014;

-         Thể hiện đầy đủ và triệt để tinh thần thuận lợi hóa giai đoạn gia nhập thị trường cho doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp 2014;

-         Phù hợp, hài hòa với các quy định có liên quan khác trong hệ thống pháp luật, theo hướng đảm bảo tôn trọng tối đa quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và tạo thuận lợi cho hoạt động của doanh nghiệp.

Rà soát toàn bộ Dự thảo cho thấy vẫn còn một số quy định chưa đảm bảo được các yêu cầu này và vì vậy cần được Ban soạn thảo cân nhắc điều chỉnh.

1.      Về ngành, nghề kinh doanh (Điều 7)

Điều 7 Dự thảo quy định khi đăng ký thành lập doanh nghiệp (bao gồm thành lập mới, thay đổi, bổ sung hay cấp đổi) doanh nghiệp phải “lựa chọn ngành kinh tế cấp bốn trong Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam để ghi và mã hóa ngành, nghề kinh doanh trong Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp … Cơ quan đăng ký kinh doanh đối chiếu và ghi nhận ngành, nghề kinh doanh, mã số ngành, nghề kinh doanh vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp”, trong trường hợp ngành, nghề kinh doanh không có trong Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam nhưng được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật khác thì “ghi theo ngành, nghề quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật đó”.

Quy định này là chưa hợp lý, gây khó khăn cho doanh nghiệp, đi ngược lại tinh thần cũng như mâu thuẫn với quy định của Luật doanh nghiệp năm 2014, cụ thể:

-         Trên thực tế, vướng mắc trong việc ghi và mã hóa ngành nghề theo Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam được xem là một trong những bất cập lớn nhất trong thủ tục gia nhập thị trường của Luật Doanh nghiệp 2005. Không chỉ các doanh nghiệp mà cả các cơ quan đăng ký kinh doanh và Ban soạn thảo Luật Doanh nghiệp 2014 đều chung nhận định như vậy, đặc biệt là về các bất cập liên quan tới:

+ Sự khác biệt trong cách hiểu và áp dụng giữa các cơ quan đăng ký kinh doanh, giữa doanh nghiệp với cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc ghi và chọn mã ngành cấp bốn;

+ Khoảng trống pháp luật chưa được giải quyết: Hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam vẫn chưa bao quát hết các ngành, kinh tế trên thực tế dẫn tới hiện tượng doanh nghiệp cũng như cơ quan nhà nước không biết xác định ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp thuộc mã nào …

Chính những bất cập trong thủ tục gia nhập thị trường này là một trong những lý do khiến cả cơ quan soạn thảo và các doanh nghiệp nhất quán tinh thần sửa đổi và xây dựng Luật doanh nghiệp năm 2014 theo hướng: việc ghi ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp chỉ có ý nghĩa thống kê, doanh nghiệp chỉ đăng ký những ngành nghề dự kiến kinh doanh và trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không thể hiện ngành, nghề kinh doanh.

Việc yêu cầu doanh nghiệp phải ghi và mã hóa ngành, nghề kinh doanh trong Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp tại Dự thảo đã không thể hiện được tính cải cách, đột phá theo tinh thần của Luật doanh nghiệp năm 2014, quay trở lại quy định tại Luật doanh nghiệp năm 2005 và do đó chắc chắn sẽ làm trầm trọng thêm những vướng mắc đề cập ở trên.

-         Việc quy định buộc doanh nghiệp phải ghi và mã hóa ngành nghề kinh doanh trong Giấy đề nghị đăng ký doanh nghiệp là không phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 mà Dự thảo đang hướng dẫn. Cụ thể, Điều 24.3 Luật này chỉ quy định Giấy đăng ký phải có nội dung “ngành, nghề kinh doanh”. Như vậy, để đáp ứng quy định tại Điều 24 thì doanh nghiệp chỉ phải ghi  ngành, nghề kinh doanh mà mình dự kiến thực hiện mà không có bất kỳ nghĩa vụ nào về việc phải mã hóa ngành nghề kinh doanh.

-         Khoản 4, 5 Điều 7 Dự thảo đã đưa ra các phương thức giải quyết cho một số vướng mắc liên quan đến những ngành, nghề kinh doanh không có trong Hệ thống ngành kinh tế Việt Nam theo hướng: dẫn chiếu tới văn bản pháp luật chuyên ngành hoặc cơ quan nhà nước sẽ bổ sung các ngành, nghề kinh doanh chưa có trong Hệ thống ngành kinh tế.

Tuy nhiên, các phương thức này vẫn chưa giải quyết một cách triệt để những vướng mắc đã và sẽ xảy ra trong thực tiễn bởi:

+ Ở các văn bản pháp luật chuyên ngành, thường không có quy định về việc xác định (về cách ghi) các ngành, nghề kinh doanh (đặc biệt là cách ghi theo Hệ thống ngành kinh tế). Hơn nữa, bản thân giữa các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành cũng có các quy định khác nhau về tên của ngành, nghề kinh doanh thuộc phạm vi điều chỉnh. Doanh nghiệp không thể tra cứu, tìm hiểu giữa một “rừng” văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành về ngành nghề kinh doanh, càng không thể biết cách ghi chính xác của các ngành, nghề này.

+ Trường hợp, ngành, nghề không có trong văn bản quy phạm pháp luât chuyên ngành và cũng chưa được bổ sung mã mới thì giải quyết như thế nào? Dự thảo chưa đưa ra được giải pháp nào cho việc này.

Từ những lý do nói trên, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định theo đúng định hướng khi xây dựng Luật Doanh nghiệp 2014, cụ thể:

-         Khi đăng ký thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp chỉ ghi các ngành, nghề kinh doanh dự kiến theo cách hiểu của mình (dừng lại ở đúng yêu cầu của Điều 24 Luật Doanh nghiệp 2014);

-         Khi xử lý hồ sơ đăng ký, cơ quan quản lý nhà nước dựa vào các ngành, nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đề nghị để xác định mã hóa ngành nghề theo Hệ thống ngành nghề kinh tế của Việt Nam, sử dụng cho mục tiêu thống kê hay bất kỳ mục tiêu quản lý phù hợp nào khác của Nhà nước (không liên quan tới doanh nghiệp).

2.      Về các trường hợp không đáp ứng các điều kiện của ngành nghề kinh doanh có điều kiện (Điều 7.9)

Điều 7.9 Dự thảo quy định “Trường hợp Phòng đăng ký kinh doanh cấp tỉnh nhận được văn bản của cơ quan có thẩm quyền khẳng định doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề có điều kiện nhưng không đáp ứng đủ điều kiện…., Phòng… ra Thông báo yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh….đồng thời thông báo cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật”.

Quy định này dường như không phù hợp:

-         Theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thì những trường hợp không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh được coi là các trường hợp vi phạm, và khi đó quyết định hành chính xác nhận việc này chính là quyết định xử lý vi phạm hành chính. Ngoài loại quyết định này, không có loại “văn bản khẳng định doanh nghiệp … không đáp ứng đủ điều kiện…” nào cả.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo nêu rõ trong trường hợp này là “quyết định xử lý vi phạm hành chính về việc doanh nghiệp… không đáp ứng đủ điều kiện..”;

-         Cơ quan có thẩm quyền trong việc xác định doanh nghiệp đáp ứng hay không đáp ứng được các điều kiện kinh doanh được suy đoán là cơ quan quản lý chuyên ngành về ngành nghề kinh doanh có điều kiện đó. Vậy nếu cơ quan này đã có văn bản xác định doanh nghiệp vi phạm (không đáp ứng điều kiện kinh doanh) thì đương nhiên cơ quan này sẽ có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật, sao Cơ quan đăng ký kinh doanh sau khi nhận được văn bản của cơ quan chuyên ngành, ra Thông báo yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh… lại phải “thông báo” cho cơ quan này để xử lý?

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo sửa lại quy định này theo hướng Phòng đăng ký kinh doanh sau khi gửi Thông báo cho doanh nghiệp yêu cầu tạm dừng kinh doanh ngành nghề vi phạm thì gửi Thông báo lại cho Cơ quan quản lý chuyên ngành đã gửi quyết định hành chính trước đó về việc đã thông báo cho doanh nghiệp.

3.      Về cấp đăng ký doanh nghiệp theo quy trình dự phòng (Điều 13)

Khoản 1 Điều 13 Dự thảo xác định phạm vi áp dụng của quy trình này là “quy trình cấp đăng ký doanh nghiệp không thực hiện thông qua Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia”.

Phạm vi này hoàn toàn không rõ, đặc biệt là ở các điểm:

-         Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia theo định nghĩa tại Điều 3.3 thì chỉ đơn thuần là hệ thống trao đổi/lưu trữ/hiển thị dữ liệu nội bộ của cơ quan có thẩm quyền, không phải hệ thống để “cấp đăng ký doanh nghiệp” (tức là không phải hệ thống “cấp” - tương tác với doanh nghiệp). Vậy quy định ở đây nghĩa là gì?

-         Những trường hợp nào thì được phép “không thực hiện thông qua Hệ thống thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia” (cứ tạm coi Hệ thống này là hệ thống cấp đăng ký doanh nghiệp chung áp dụng cho tất cả các trường hợp đăng ký doanh nghiệp thông thường)?

-         Doanh nghiệp làm thế nào để nhận biết các trường hợp phải thực hiện theo quy trình dự phòng, trường hợp nào thì bắt buộc theo quy trình chung?

Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ để giải quyết các vấn đề trên, đảm bảo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục.

4.      Nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đăng ký kinh doanh

Theo quy định tại khoản 7 Điều 15, khoản 5 Điều 16 Dự thảo thì cơ quan đăng ký kinh doanh có quyền “yêu cầu doanh nghiệp/hộ gia đình tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện khi phát hiện doanh nghiệp không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật, đồng thời thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật”.

Quy định này là vượt quá thẩm quyền của cơ quan đăng ký kinh doanh và chồng chéo với thẩm quyền của các cơ quan nhà nước chuyên ngành, đồng thời mâu thuẫn với chính quy định khoản 8 Điều 7 Dự thảo (“việc quản lý nhà nước đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện và kiểm tra việc chấp hành điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của cơ quan chuyên ngành theo quy định của pháp luật chuyên ngành”). Cụ thể:

-         Theo quy định tại Điều 209 Luật doanh nghiệp năm 2014 thì cơ quan đăng ký kinh doanh không có quyền hạn “yêu cầu doanh nghiệp/hộ gia đình tạm ngừng kinh doanh ngành, nghề kinh doanh có điều kiện”;

-         Về mặt logic, nhiệm vụ kiểm tra của cơ quan đăng ký kinh doanh đối với các doanh nghiệp chỉ thuộc về phạm vi các vấn đề liên quan đến đăng ký doanh nghiệp mà không nên các phạm vi khác (đặc biệt là các điều kiện theo pháp luật chuyên ngành);

-         Trong hệ thống pháp luật hiện nay, ở mỗi ngành, lĩnh vực kinh doanh đều có các cơ quan quản lý nhà nước riêng, các cơ quan này có chức năng, nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp có hoạt động thuộc lĩnh vực quản lý của mình, trong đó có việc thanh tra, kiểm tra các điều kiện kinh doanh mà ngành mình quản lý. Nếu cơ quan đăng ký kinh doanh cũng tiến hành kiểm tra cả những điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp sẽ gây ra hiện tượng chồng chéo về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà nước.

Để đảm bảo tính thống nhất về thẩm quyền cũng như giữa các quy định pháp luật, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại khoản 7 Điều 15, khoản 5 Điều 16 Dự thảo.

Nếu Ban soạn thảo giải trình được lý do hợp lý để giữ điều khoản này thì đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi theo hướng, cơ quan đăng ký kinh doanh khi phát hiện doanh nghiệp/hộ gia đình không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật thì thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.

5.      Về xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp (Điều 22)

Điều 22 Dự thảo quy định về việc xử lý yêu cầu của chủ sở hữu công nghiệp bị vi phạm, theo đó:

-         Điều kiện: Phải có kết luận của Cơ quan có thẩm quyền về sở hữu trí tuệ về việc vi phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên doanh nghiệp liên quan; chủ sở hữu phải có yêu cầu tới cơ quan đăng ký kinh doanh và cung cấp đủ hồ sơ (bằng chứng chứng minh quyền);

-         Trình tự: Cơ quan đăng ký kinh doanh ra Thông báo yêu cầu doanh nghiệp vi phạm phải thay đổi tên và thực hiện thủ tục thay đổi tên trong thời hạn 02 tháng kể từ ngày ra Thông báo; Trong trường hợp doanh nghiệp không thay đổi tên thì cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp giải trình, đồng thời thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ;

-         Xử lý: Trong trường hợp doanh nghiệp không thông báo hoặc nội dung giải trình không được chấp thuận, cơ quan đăng ký kinh doanh thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 211 Luật Doanh nghiệp.

Quy định này là mâu thuẫn với quy định tại Nghị định số 99/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp (Nghị định 99) ở các điểm:

-         Cơ quan có thẩm quyền: Theo quy định tại Nghị định 99 thì đối với hành vi vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp liên quan đến tên doanh nghiệp thuộc hành vi vi phạm về cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực sở hữu công nghiệp và sẽ bị xử phạt tiền cũng như bị “buộc thay đổi tên doanh nghiệp, loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp” (điểm c khoản 18 Điều 14 Nghị định 99). Cơ quan có thẩm quyền xử phạt và yêu cầu doanh nghiệp thay đổi tên doanh nghiệp là thanh tra của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Như vậy, Dự thảo quy định cơ quan đăng kinh doanh có quyền yêu cầu doanh nghiệp thay đổi tên là chưa phù hợp với quy định tại Nghị định 99;

-         Quy trình xử lý vi phạm: Điều 31 Nghị định 99 quy định, doanh nghiệp vi phạm phải thay đổi tên doanh nghiệp, loại bỏ yếu tố vi phạm trong tên doanh nghiệp tại cơ quan đăng ký kinh doanh trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành. Sau thời hạn này mà doanh nghiệp vi phạm không tiến hành thủ tục thay đổi tên, thì cơ quan ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính yêu cầu cơ quan đăng ký kinh doanh thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Như vậy, theo quy định này thì cơ quan đăng ký kinh doanh tham gia vào quy trình này với vai trò là bên nhận yêu cầu từ phía cơ quan có quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp và tự động thực hiện thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (theo nghĩa cứ có yêu cầu thì phía cơ quan sở hữu trí tuệ thì thực hiện); cơ quan đăng ký kinh doanh hoàn toàn không phải là cơ quan có vai trò chủ động yêu cầu doanh nghiệp phải thay đổi tên và thông báo với cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm về sở hữu công nghiệp (và cũng không có quyền lựa chọn, cân nhắc cách thức xử lý).

Quy trình xử lý trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp tại Dự thảo còn chưa hợp lý, tạo gánh nặng thủ tục cho doanh nghiệp ở điểm:

-         Theo quy định của pháp luật về sở hữu công nghiệp, trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã xác định có hành vi vi phạm về sở hữu công nghiệp thì sẽ có quyết định xử phạt và buộc doanh nghiệp phải thay đổi tên mà không cần doanh nghiệp bị thiệt hại phải thực hiện thêm thủ tục nào khác. Việc yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện thêm thủ tục thông báo quy định tại Điều 22 Dự thảo sẽ tạo thêm gánh nặng về thủ tục cho doanh nghiệp, trong khi đây lại là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

-         Khoản 5 Điều 22 Dự thảo quy định cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ yêu cầu doanh nghiệp vi phạm giải trình trong trường hợp không thực hiện yêu cầu thay đổi tên từ phía cơ quan đăng ký kinh doanh là chưa rõ ràng và chưa hợp lý? Doanh nghiệp sẽ giải trình điều gì trong trường hợp này và cơ quan đăng ký kinh doanh sẽ dựa vào cơ sở nào để chấp thuận/không chấp thuận giải trình đó (trong khi về nguyên tắc là doanh nghiệp này rõ ràng đã vi phạm bởi đã có quyết định hành chính của cơ quan sở hữu trí tuệ)? Hơn nữa, theo quy định này thì sẽ có trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh chấp thuận việc doanh nghiệp vi phạm không đổi tên trong thời hạn yêu cầu, như vậy thì quyền lợi của doanh nghiệp bị vi phạm sẽ được bảo vệ như thế nào?

Mặt khác, Dự thảo áp dụng căn cứ điểm d khoản 1 Điều 211 Luật doanh nghiệp để có quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là chưa chính xác, bởi đây là quy định về hành vi không gửi báo cáo định kỳ của doanh nghiệp theo định kỳ trong khi hành vi mà khoản 5 Điều 22 Dự thảo đề cập lại là việc doanh nghiệp không gửi báo cáo theo yêu cầu của cơ quan đăng ký kinh doanh về việc đổi tên hoặc nội dung báo cáo không được cơ quan nhà nước chấp thuận.

Để có cơ sở cho việc xử lý trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp trên, có thể áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 211 Luật doanh nghiệp (nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo). Lý do: tên doanh nghiệp vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp có thể được hiểu là “tên trùng và tên gây nhầm lẫn” (Điều 20 Dự thảo) (và bằng chứng trong trường hợp này là quyết định hành chính của cơ quan về sở hữu trí tuệ); tại thời điểm đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp sử dụng tên vi phạm này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp đã “giả mạo” doanh nghiệp khác, vi phạm điểm a khoản 1 Điều 211 Luật doanh nghiệp. Với căn cứ này, cơ quan đăng ký kinh doanh hoàn toàn có quyền thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo Điều 211.1a Luật Doanh nghiệp 2014 ngay khi nhận được yêu cầu và quyết định hành chính của cơ quan sở hữu trí tuệ.

Như vậy, để đảm bảo tính thống nhất trong các quy định giữa các văn bản có liên quan, đề nghị Ban soạn thảo quy định về quy trình xử lý đối với trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp tại Điều 22 theo hướng sau:

-         Điều chỉnh quy trình xử lý trường hợp tên doanh nghiệp vi phạm quy định về sở hữu công nghiệp theo quy định Nghị định 99 – Bỏ các khoản 2, 3, 4 Điều 22 Dự thảo;

-         Quy định lại quy trình này, bắt đầu từ thời điểm cơ quan đăng ký kinh doanh nhận được yêu cầu của cơ quan có quyết định xử phạt về sở hữu công nghiệp, theo đó: cơ quan đăng ký kinh doanh yêu cầu doanh nghiệp vi phạm phải thay đổi tên trong một khoảng thời gian, hết khoảng thời gian đó nếu doanh nghiệp không thay đổi thì ra quyết định thu hồi Giấy đăng ký doanh nghiệp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 211 Luật doanh nghiệp.

-         Bỏ quy định tại khoản 6 “Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ hướng dẫn chi tiết Điều này” bởi vì theo quy định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì cơ quan được ủy quyền quy định chi tiết (là Chính phủ) không được ủy quyền tiếp (cho Bộ).

6.      Về tiếp nhận và xử lý hồ sơ đăng ký doanh nghiệp (Điều 31, 32)

Theo quy định tại khoản 4 Điều 31, khoản 1 Điều 32 Dự thảo thì hồ sơ đăng ký doanh nghiệp được xử lý như sau:

-         Hồ sơ sẽ được Phòng đăng ký kinh doanh nhập vào Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp và kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ;

-         Nếu hồ sơ chưa hợp lệ thì Phòng đăng ký kinh doanh sẽ yêu cầu sửa đổi, bổ sung trong 03 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ;

-         Trường hợp đăng ký qua mạng điện tử, cơ quan đăng ký kinh doanh thông báo qua mạng điện tử cho doanh nghiệp đã đăng ký thời điểm trả kết quả đăng ký doanh nghiệp hoặc các nội dung cần bổ sung, sửa đổi (nếu có);

-         Nếu hồ sơ hợp lệ thì Phòng đăng ký kinh doanh sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ khi nhận hồ sơ hợp lệ, trường hợp quá thời hạn này mà không nhận được Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thì doanh nghiệp có quyền khiếu nại theo pháp luật về khiếu nại, tố cáo.

Quy định về quy trình xử lý và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trên là chưa phù hợp với Luật doanh nghiệp và thiếu rõ ràng ở các điểm sau:

-         Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Luật doanh nhiệp năm 2014 thì thời gian để xem xét tính hợp lệ của hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ. Theo quy định tại Dự thảo thì thời hạn này là 06 ngày làm việc, như vậy là trái quy định tại Luật doanh nghiệp;

-         Không rõ về thời gian xử lý và trả kết quả của trường hợp đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử. Việc thiếu rõ ràng này sẽ là cản trở trong việc thu hút doanh nghiệp thực hiện đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử, qua đó không đơn giản được thủ tục hành chính.

Từ những phân tích trên, đề nghị Ban soạn thảo:

-         Quy định khoảng thời gian xem xét hồ sơ và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ

-         Quy định rõ về thời gian xử lý và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong trường hợp đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử.

7.      Về đăng ký hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, thông báo lập địa điểm kinh doanh (Điều 37)

-         Khoản 2 Điều 37 Dự thảo quy định doanh nghiệp phải gửi thông báo nơi đặt địa điểm kinh doanh đến Phòng Đăng ký kinh doanh cấp tỉnh trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định thành lập địa điểm kinh doanh. Quy định này là chưa thống nhất với Luật doanh nghiệp bởi Luật không quy định về thủ tục này, vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại khoản 2 Điều 37;

-         Khoản 3 Điều 37 Dự thảo quy định, “ghi bổ sung địa điểm kinh doanh vào Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh của doanh nghiệp”, tuy nhiên theo quy định tại Điều 29 Luật doanh nghiệp thì nội dung của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lại không có nội dung về địa điểm kinh doanh. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này để đảm bảo tính thống nhất với Luật doanh nghiệp.

8.      Đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử (Chương V)

Chương V Dự thảo quy định về hồ sơ, trình tự, thủ tục đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử. Đây là thủ tục mới so với các quy định hiện hành, thể hiện bước cải cách tiến bộ về thủ tục đăng ký doanh nghiệp của Luật doanh nghiệp mới.

Tuy nhiên, một số quy định tại Dự thảo lại chưa thật rõ ràng và/hoặc chưa thể hiện được điểm đặc trưng, tích cực của thủ tục đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử, chẳng hạn:

-         Đối với cả hai trường hợp đăng ký qua mạng (Điều 41,42): Dự thảo hiện không quy định về các thời hạn cho từng bước thủ tục liên quan (ngoại trừ thời hạn nộp hồ sơ bằng bản giấy sau khi đăng ký điện tử không dùng chữ ký số). Việc thiếu các thời hạn này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ không biết thời điểm nào mình sẽ nhận được Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và cũng không gắn được trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về thời hạn của mỗi trình tự, thủ tục được tiến hành đăng ký qua mạng điện tử;

-         Đối với trường hợp không sử dụng chữ ký số công cộng (Điều 42): Dự thảo quy định đối với thủ tục này, doanh nghiệp vừa phải thực hiện đăng ký qua mạng điện tử vừa phải thực hiện thủ tục theo phương thức truyền thống (nộp bản giấy).  Điều này là chưa thể hiện được tính đặc thù của việc thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử và tạo gánh nặng về thủ tục cho doanh nghiệp: doanh nghiệp vừa phải tải các văn bản điện tử của các giấy tờ chứng thực cá nhân, xác thực hồ sơ, thanh toán phí vừa phải nộp hồ sơ bằng giấy.

Nếu cho rằng việc đơn thuần nộp các văn bản điện tử chưa đủ độ tin cậy, thì quy trình này nên thiết kế theo hướng: doanh nghiệp chỉ cần điền các thông tin đăng ký theo yêu cầu và nếu các thông tin này phù hợp, cơ quan đăng ký sẽ yêu cầu doanh nghiệp nộp hồ sơ giấy để đối chiếu, đồng thời yêu cầu đóng phí và cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp ngay tại thời điểm nộp hồ sơ giấy. Theo cách này thì bước đăng ký điện tử chỉ giúp cho doanh nghiệp không phải tới cơ quan đăng ký kinh doanh lần đầu, khi doanh nghiệp đến là sẽ được cấp giấy (sau khi đối chiếu thông tin đã khai và giấy tờ gốc).

Vì vậy, để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo xem xét quy định thủ tục này theo hướng thực hiện hoàn toàn trên môi trường điện tử hoặc giai đoạn thực hiện trên môi trường điện tử như giai đoạn đăng ký thực hiện thủ tục và sẽ được xem xét cấp tại thời điểm nộp hồ sơ bản giấy.

9.      Về thủ tục thông báo địa điểm kinh doanh của hộ kinh doanh (Điều 68)

Điều 68 Dự thảo quy định “hộ kinh doanh buôn chuyến, kinh doanh lưu động được phép kinh doanh ngoài địa điểm đã đăng ký với Cơ quan đăng ký kinh doanh nhưng phải thông báo với cơ quan thuế, cơ quan quản lý thị trường nơi đăng ký trụ sở và nơi tiến hành hoạt động kinh doanh”. Quy định này có nhiều bất cập:

+ Không phù hợp với đặc thù của loại kinh doanh này là tính lưu động, không cố định, và do đó thủ tục thông báo này sẽ tạo ra rất nhiều thủ tục, gây phiền hà cho các hộ kinh doanh;

+ Khó khả thi: Liệu cơ quan có thẩm quyền có giám sát được việc các hộ kinh doanh lưu động, buôn chuyến đi tới những đâu không để xử lý trường hợp không thông báo?

+ Không cần thiết: Theo quy định thì hộ kinh doanh phải nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ khác tại cơ quan có thẩm quyền nơi đăng ký kinh doanh rồi, vậy thông báo cho các cơ quan ở những nơi khác nhằm mục đích gì?

Từ các lý do trên, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định về nghĩa vụ thông báo này tại Điều 68 Dự thảo.

10.  Liên quan tới một số quy định đã có trong pháp luật khác

Một số quy định trong Dự thảo đề cập tới những nội dung mà về mặt hệ thống pháp luật là thuộc phạm vi điều chỉnh các văn bản pháp luật khác, và do đó có thể gây ra cách hiểu sai (ví dụ hiểu nhầm rằng chỉ tại Điều khoản cụ thể đó mới được áp dụng quy định đó, còn các Điều khoản khác thì không được) hoặc tạo tiền lệ làm rối hệ thống pháp luật liên quan. Ví dụ:

-         Điều 32.2 quy định về quyền khiếu nại nếu quá thời hạn cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp mà không nhận được thông báo yêu cầu sửa đổi, cũng không được cấp Giấy: Đây là quy định thuộc pháp luật về khiếu nại, áp dụng cho mọi trường hợp cơ quan đăng ký kinh doanh có hành vi hành chính theo Nghị định này mà tổ chức, cá nhân khác muốn khiếu nại chứ không chỉ riêng trường hợp này;

-         Điều 36.2 quy định tỷ lệ trích để lại (từ lệ phí đăng ký doanh nghiệp) cho Cơ quan đăng ký kinh doanh không thấp hơn 50% tổng số tiền thu được: Về mức lệ phí, tỷ lệ trích để lại đối với từng loại lệ phí, phí thì pháp luật về phí, lệ phí đã có quy định rất rõ, áp dụng cho tất cả các trường hợp. Vì vậy không thể mỗi văn băn về một vấn đề lại quy định riêng về tỷ lệ trích lại.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ các quy định chồng lấn với phạm vi điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành liên quan nói trên và rà soát toàn bộ Dự thảo để bỏ đi các quy định tương tự.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định về đăng ký doanh nghiệp. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Ngoài ra gửi kèm theo phụ lục một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

Các văn bản liên quan