Góp ý Dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi) của PGS.Ts Nguyễn Ngọc Điện và TS. Đoàn Thị Phương Diệp – ĐH Kinh tế – Luật, ĐH Quốc gia Tp.HCM – Hội thảo VCCI tại Tp.HCM ngày 11/4/2014

Thứ Sáu 11:06 11-04-2014

S CN THIT VN DNG LÝ THUYT VT QUYN VÀO PHÁP LUT DÂN S -

TRƯỜNG HỢP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH THẾ CHẤP TÀI SẢN 

                                                                                                       PGS.Ts Nguyễn Ngọc  Điện

Ts Đoàn Thị Phương Diệp

Đại học Kinh tế-Luật, Đại học Quốc gia TPHCM

1. Tổng quan về lý thuyết vật quyền

 1.1.     Khái niệm vật quyền

 Vật quyền và trái quyền. Theo học thuyết pháp lý Châu Âu1, vật quyền (jus in re trong tiếng Latinh) được hiểu là quyền cho phép người có quyền thực hiện các hành vi thể hiện quyền năng một cách trực tiếp trên tài sản, không cần đến vai trò hợp tác hoặc giúp sức của người khác.  Chẳng hạn, chủ sở hữu có quyền cư ngụ trong nhà, đem nhà cho thuê mà không cần hỏi ý kiến bất kỳ ai. Quan hệ vật quyền chỉ gồm hai yếu tố: chủ thể, người có quyền, và tài sản, đối tượng của quyền.

 Với ý nghĩa đó, vật quyền đối lập với trái quyền (jus in personam). Còn gọi là quyền đối nhân, trái quyền được hiểu là quyền được một người, gọi là trái chủ, thực hiện nhằm đòi hỏi một người khác, gọi là thụ trái, thoả mãn một yêu cầu nào đó của mình. Quan hệ trái quyền có 3 yếu tố: trái chủ, thụ trái và sự đáp ứng yêu cầu, còn gọi là đối tượng của trái quyền. Ví dụ tiêu biểu về trái quyền là quyền đòi nợ. Khác với vật quyền, trái quyền cần sự hợp tác giữa các chủ thể, đặc biệt là sự hợp tác của thụ trái, để được thực hiện. Chẳng hạn, chủ nợ muốn đòi nợ, thì phải yêu cầu người mắc nợ chi trả, chứ không thể tự tiện lấy vật này, vật khác của người mắc nợ để trừ nợ.

 1.2.     Đặc điểm của vật quyền

 Tính tuyệt đối. Vật quyền phải được tất cả mọi người thừa nhận và tôn trọng. Chủ sở hữu có quyền thực hiện quyền sở hữu đối với tài sản và tất cả mọi người phải để yên cho chủ sở hữu làm việc đó. Trong trường hợp bị ngăn cản, chủ sở hữu có quyền yêu cầu pháp luật can thiệp để vô hiệu hoá  sự ngăn cản.

 Trong khi đó, trái quyền chỉ phát sinh hiệu lực trong quan hệ giữa hai bên thụ trái và trái chủ; người thứ ba có quyền không bận tâm đến quan hệ đó.

 Để vật quyền được thừa nhận và tôn trọng, điều cần thiết là nó được người khác nhận biết. Luật đặt ra chế định đăng ký để thông tin cho mọi người về sự tồn tại của vật quyền. Được đăng ký, vật quyền coi như được công bố cho tất cả mọi người và phải được mọi người biết đến.

 Quyền theo đuổi. Như là hệ quả của tính tuyệt đối, người có vật quyền có quyền thực hiện quyền của mình đối với vật, bất kể vật nằm trong tay ai. Chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản thuộc sở hữu của mình đang nằm trong tay người khác. Chủ nợ nhận thế chấp có quyền tổ chức việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ mà không cần bận tâm đến việc tìm hiểu xem ở thời điểm xử lý, tài sản thuộc quyền sở hữu của người nào.

 Quyền ưu tiên. Người có vật quyền được thực hiện quyền của mình đối với vật  trước những chủ thể khác cũng được cho là có quyền đối với tài sản.  Quyền ưu tiên bộc lộ rõ các ưu điểm của nó trong trường hợp vật quyền bảo đảm: chủ nợ có vật quyền bảo đảm, như vật quyền nhận cầm cố, vật quyền nhận thế chấp, có quyền thu hồi nợ bằng cách trích tiền bán tài sản trước tất cả các chủ nợ khác của người mắc nợ; các chủ nợ khác phải chờ chủ nợ có bảo đảm lấy xong phần của mình từ tiền bán tài sản, rồi mới cùng chia nhau những gì còn lại, nếu có.    

 1.3.     Phân loại vật quyền 

 Vật quyền chính. Gọi là vật quyền chính những quyền trực tiếp cho phép người có quyền tác động vào chính bản thể của tài sản. Quyền sở hữu là ví dụ tiêu biểu về loại vật quyền này. Đây cũng là vật quyền chính đầy đủ, hoàn hảo nhất với tất cả các quyền năng cần thiết, tạo điều kiện cho người có quyền thu được tất cả những tiện ích do tài sản mang lại. Các quyền hưởng hoa lợi, quyền sở hữu bề mặt, quyền địa dịch,… là những ví dụ khác về vật quyền chính.

 Vật quyền phụ  trợ. Gọi là vật quyền phụ trợ những quyền cho phép người có quyền tác động không phải vào bản thể của tài sản mà vào giá trị kinh tế của tài sản. Các vật quyền này hình thành từ các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản, như cầm cố, thế chấp. Tính chất phụ trợ được ghi nhận, do tính hỗ trợ của vật quyền này đối với việc thu hồi nợ của chủ nợ có bảo đảm: trong trường hợp nợ không được trả, chủ nợ có thể xử lý tài sản bảo đảm bằng cách tổ chức kê biên và bán, rồi nhận tiền thanh toán trước các chủ nợ khác của người mắc nợ.  Chủ nợ có bảo đảm được phép thực hiện quyền này, bất kể tài sản bảo đảm đang nằm trong tay ai và không ai được quyền ngăn cản.       

 2. Lợi ích của việc áp dụng lý thuyết vật quyền vào pháp luật dân sự

 Nhiều ý kiến cho rằng không có lý thuyết vật quyền, các BLDS năm 1995 và  2005 vẫn được áp dụng và phát huy tác dụng chi phối tích cực trong đời sống dân sự; bởi vậy, không cần thiết đưa lý thuyết này vào nội dung cải cách pháp luật dân sự Việt Nam. Sự thật, rất nhiều điểm bất hợp lý trong các BLDS có nguồn gốc trực tiếp từ việc thiếu vắng lý thuyết vật quyền. Một số điểm bất hợp lý thậm chí đã và đang là nguyên nhân của những xung đột xã hội dẫn đến rối ren, mà luật hiện hành không đủ sức giải quyết thấu đáo. Ví dụ điển hình liên quan đến việc bảo đảm nghĩa vụ bằng thế chấp tài sản, một loại vật quyền phụ trợ như nói trên.

2.1. Vật quyền thế chấp tài sản trong luật của các nước

Đặc điểm của vật quyền thế chấp. Một cách nôm na, thế chấp là việc dùng một tài sản để bảo đảm cho việc trả một món nợ.  Tài sản thế chấp vẫn thuộc về người thế chấp, được người thế chấp nắm giữ, quản lý, khai thác trong những điều kiện bình thường.. Nhưng trong trường hợp nợ không được trả, thì chủ nợ nhận thế chấp có quyền tiến hành kê biên, bán tài sản và ưu tiên nhận tiền thanh toán từ tiền bán tài sản so với các chủ nợ khác của người thế chấp.

Thế chấp tài sản tạo ra một vật quyền đối với giá trị kinh tế của tài sản, không phải đối với bản thể tài sản như quyền sở hữu, như đã nói.  Chủ nợ nhận thế chấp không có các quyền của chủ sở hữu đối với tài sản, bao gồm quyền định đoạt: các quyền này vẫn thuộc về người thế chấp đồng thời là chủ sở hữu. Đơn giản, một khi không ai đứng ra trả nợ, thì chủ nợ áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm làm bật ra giá trị kinh tế của tài sản, để thu hồi nợ, mà không ai, kể cả chủ sở hữu, có quyền ngăn cản. Tất nhiên, một khi tài sản thế chấp được đem bán, thì chủ sở hữu cũng mất quyền sở hữu của mình vào tay người mua.

Cũng vì chủ sở hữu không thể ngăn cản chủ nợ nhận thế chấp thực hiện quyền xử lý tài sản thế chấp mà đối với chủ nợ nhận thế chấp việc chủ sở hữu tài sản là ai không thành vấn đề. Rõ hơn, tài sản thế chấp có thể được bán, được tặng cho, trao đổi, nói chung là được chuyển quyền sở hữu trong thời gian thế chấp2.     

Quyền của chủ  nợ nhận thế chấp trong việc xử lý tài sản thế chấp. Có vật quyền đối với tài sản, chủ nợ nhận thế chấp có vị thế thuận lợi hơn hẳn các chủ nợ thường trong việc thu hồi nợ bằng giá trị của tài sản thế chấp. Thực ra, ở các nước không xây dựng thủ tục tố tụng riêng cho việc thu hồi nợ bằng cách xử lý tài sản thế chấp. Chủ nợ nhận thế chấp muốn có một bản án buộc trả nợ đối với người mắc nợ, thì phải tiến hành thủ tục tố tụng theo luật chung. Cả việc kê biên, bán tài sản thế chấp cũng theo thủ tục chung về thi hành án.

Tuy nhiên, một khi tài sản được bán xong, thì ưu thế của chủ nợ có bảo đảm sẽ lộ ra: chủ nợ nhận cầm cố, nhận thế chấp có một quyền trực tiếp trên giá trị kinh tế của tài sản, nghĩa là trên số tiền bán tài sản; quyền này cho phép chủ nợ ưu tiên lấy trước từ số tiền bán tài sản phần tiền cần thiết để trừ nợ mà không cần hỏi ý kiến hoặc thoả thuận với ai khác, nhất là với các chủ nợ thường của của người mắc nợ. Người thế chấp, về phần mình, không còn có quyền sở hữu tài sản và nếu người này tiếp tục nắm giữ tài sản mà không có sự đồng ý của người mua, thì sẽ ở trong tình trạng chiếm giữ trái phép tài sản của người khác và có thể bị chế tài.

Mặt khác, ở một số nước, để tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nợ nhận thế chấp trong việc xử lý tài sản, luật thừa nhận rằng chứng thư xác lập quan hệ thế chấp tự nó có giá trị như một bản án; trong trường hợp nợ không được trả, thì chủ nợ có quyền dung chứng thư thế chấp như một bản án có hiệu lực pháp luật và tổ chức cưỡng chế việc trả nợ theo thủ tục thi hành án. Để có được hiệu lực của một bản án, chứng thư thế chấp phải được công chứng. 

2.2. Những khuyết tật của chế định thế chấp trong luật thực định Việt Nam

Thế chấp là một trường hợp của quan hệ trái quyền.  Chế định thế chấp và nói chung, các biện pháp đảm nghĩa vụ được xây dựng trong luật Việt Nam hiện hành trong khuôn khổ chế độ pháp lý về nghĩa vụ và hợp đồng. Quan hệ bảo đảm nghĩa vụ được ghi nhận có 3 yếu tố: bên bảo đảm, bên nhận bảo đảm và nội dung bảo đảm (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh,…). Có thể ghi nhận ở đó những nét đặc trưng của quan hệ trái quyền theo quan niệm của luật phương Tây.  

Các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ nói chung và, nói riêng, thế chấp tài sản trong luật thực định Việt Nam cũng được xây dựng trên cơ sở tư tưởng chủ đạo theo đó, chủ nợ có bảo đảm, trong trường hợp cần thiết, có thể thu hồi nợ mà không cần sự hợp tác của người mắc nợ. Tuy nhiên, do không áp dụng lý thuyết vật quyền, người làm luật không có đủ công cụ để giải quyết các vấn đề cần thiết nhằm cụ thể hoá tư tưởng này. Người làm luật đã tự mày mò, sáng tạo và rốt cuộc đã đi đến những giải pháp rất lạ đối với phần còn lại của thế giới.

Tính đặc thù của giải pháp. Chủ nợ nhận thế chấp cần hai điều: thứ nhất, tài sản bảo đảm luôn hiện hữu về phương diện vật chất; thứ hai, chủ nợ có thể “lấy” tài sản để xử lý mà không gặp phải sự cản trở của bất kỳ ai. Với lý thuyết vật quyền, chủ nợ có quyền tuyệt đối và quyền theo đuổi đối với tài sản thế chấp, do đó, cả hai yêu cầu đều được đáp ứng thoả đáng.   

Trong trường hợp không có lý  thuyết vật quyền, thì để có được hai điều ấy, điều kiện cần thiết là tài sản bảo đảm không được dịch chuyển trong thời gian bảo đảm. Rõ ràng, nếu không có quyền đeo đuổi, chủ nợ nhận thế chấp không có tư cách gì để kê biên tài sản trong tay một người trong điểu kiện người này không mắc nợ và đã nhận tài sản từ một vụ chuyển nhượng hợp lệ. Muốn có được tài sản thế chấp để xử lý, thì nhất thiết phải cấm chuyển nhượng tài sản trong thời gian thế chấp.          

Và người làm luật cấm thật. Theo BLDS Điều 348 khoản 4 và Điều 349 khoản 3, người thế chấp không được bán, trao đổi, tặng cho tài sản thế chấp, nếu không được sự đồng ý  của người nhận thế chấp3. Nếu vi phạm quy định ấy, người thế chấp bị coi là vi phạm nghĩa vụ của người thế chấp, thậm chí còn có thể bị quy trách nhiệm hình sự về hành vi lạm dụng tính nhiệm hoặc lừa đảo và chịu những chế tài nặng nề.

 Không chỉ bị hạn chế  về quyền định đoạt, cả quyền sử dụng, khai thác công dụng của tài sản cũng bị giới hạn. Theo Điều 349 khoản 5, người thế chấp có quyền cho thuê, cho mượn tài sản thế chấp, nhưng phải thông báo cho bên thuê, bên mượn biết về việc tài sản cho thuê, cho mượn đang được dùng để thế chấp và phải thông báo cho bên nhận thế chấp biết.

 Với những quy định ấy, quan hệ  thế chấp có tác dụng trao cho người nhận thế  chấp chức năng “cảnh sát” đối với người thế  chấp liên quan đến việc sử dụng, định đoạt tài sản. Người nhận thế chấp trở thành người canh giữ tài sản trong thời gian thế chấp, người giám sát hành vi của chủ sở hữu đối với tài sản trong thời gian đó.               

Sự bế tắc trong trường hợp người bảo đảm không chịu hợp tác để xử lý tài sản. Giữ được tài sản trong tay người thế chấp, không để tài sản bị chuyển dịch, chỉ mới là điều kiện cần cho việc xử lý tài sản. Việc xử lý chỉ diễn ra suôn sẻ một khi nợ không được trả, tài sản có thể nằm dưới thẩm quyền của chủ nợ có bảo đảm và có thể được xử lý theo đúng dự kiến mà không gặp sự cản trở nào, đặc biệt là sự cản trở cùa người mắc nợ bằng các hành vi thuần tuý vật chất.

 Nhắc lại rằng ở các nước tiền tiến, một khi người mắc nợ không chịu trả nợ, thì chủ nợ có quyền xúc tiến thủ tục kê biên và bán tài sản của người này, bao gồm tài sản thế chấp, rồi ưu tiên nhận tiền thanh toán từ tiền bán tài sản. Cần nhấn mạnh rằng chủ nợ nhận thế chấp có quyền tiến hành các thủ tục xử lý tài sản thế chấp mà không cần sự đồng ý, cả sự hợp tác của người thế chấp, do chủ nợ có vật quyền đối với tài sản. Một khi tài sản được bán, thì người thế chấp cũng mất quyền sở hữu vào tay người khác; nếu cứ tiếp tục nắm giữ tài sản mà không được người mua đồng ý, thì người này sẽ bị coi là chiếm giữ trái phép tài sản của người khác và có thể bị trục xuất bằng công lực theo yêu cầu của chủ sở hữu.

Người làm luật Việt Nam có cách giải quyết riêng (BLDS Điều 351 khoản 5): người nhận thế chấp có quyền yêu cầu người thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý. “Yêu cầu” có nghĩa là chủ nợ nhận thế chấp phải chủ động lên tiếng và phải đợi sự đáp ứng tích cực của người được yêu cầu. Nhưng nếu người này không đáp ứng, thì luật không lại chỉ ra được chủ nợ phải làm gì. Hẳn chỉ còn mỗi cách kiện ra toà án, bởi luật Việt Nam không thừa nhận khả năng lập một chứng thư thế chấp ngoại tư pháp mà có hiệu lực thi hành của một bản án như luật của các nước.

Giải pháp tháo gỡ  bế tắc: quyền thu giữ tài sản. Nhận thấy được từ rất sớm điểm bất hợp lý đó của BLDS, người làm luật, trong khuôn khổ hướng dẫn thực hiện các quy định về bảo đảm nghĩa vụ trong BLDS, đã ghi nhận một biện pháp ít nhiều mang ý nghĩa hành chính, gọi là thu giữ tài sản tại Nghị định 63//2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 Điều 634. Theo tinh thần của điều khoản ấy, thì chủ nợ có quyền thu giữ tài sản sau khi đã phát một thông báo về việc xử lý tài sản mà người giữ tài sản không chịu giao tài sản. Điều đó có nghĩa là trong thông báo xử lý tài sản phải có một yêu cầu về việc giao tài sản để xử lý; quyền thu giữ hình thành trong trường hợp đã hết hạn ghi trong thông báo mà người giữ tài sản không chịu giao.

Cũng theo tinh thần của điều khoản nói trên của Nghị định, cụ thể là  theo khoản 2 điều khoản đó, thì chủ nợ  có bảo đảm phải phát một thông báo về  việc thu giữ tài sản5, trong đó ghi rõ thời hạn tiến hành thu giữ. Hết thời hạn đó mà bên kia không chịu hợp tác, thì chủ nợ mới được quyền chủ động thu giữ. Tuy nhiên, chủ nợ có thể chủ động theo cách nào và đến mức độ nào, thì nghị định lại không nói rõ. Tại điểm b khoản 2 Điều 63 đã nói, người làm luật chỉ khẳng định chủ nợ “không (được) áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm”. Có thể từ đó hiểu rằng chủ nợ có bảo đảm, cụ thể là chủ nợ nhận thế chấp, có thể làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm để đặt tài sản dưới quyền xử lý của mình.

Không khó để nhận ra những khó  khăn của người làm luật trong việc vạch đường đi cho chủ nợ thực hiện quyền của mình trong một khung pháp lý lỏng lẻo. Chủ nợ làm được gì để thu hồi nợ, ngoài việc dùng vũ lực để trấn áp, trong trường hợp người mắc nợ từ chối giao tài sản, sau khi đã nhận được đến hai thông báo, và thậm chí có thái độ phản kháng? Cần nhấn mạnh rằng trong xã hội có tổ chức và thượng tôn pháp luật, quyền dùng vũ lực chỉ được thừa nhận trong trường hợp cần tự vệ chống sự tấn công trước của người khác. Điều này được khẳng định mà không phân biệt chủ thể của quyền là nhà chức trách hay dân thường.

Trong khung cảnh của Điều 63 Nghị  định nói trên, chủ nợ mà muốn thu giữ tài sản đang nằm trong tay một chủ sở hữu không chấp nhận hợp tác hẳn phải đến hiện trường nơi định tiến hành thu giữ với một đoàn vệ sĩ tư nhân vai u thịt bắp, thậm chí có vũ trang gậy gộc, và sẵn sàng ứng chiến. Khó có thể nhìn nhận đó là kiểu ứng xử được coi là có tính pháp lý và được cổ vũ trong một xã hội văn minh. Có lẽ cũng nhận thấy điều này, người soạn thảo Nghị định đã nhắc đến vai trò của UBND cấp cơ sở ở địa phương sở tại trong việc hỗ trợ thu giữ tài sản. Theo khoản 5 Điều 63 Nghị định đã dẫn, “Trong quá trình tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, nếu bên giữ tài sản bảo đảm có dấu hiệu chống đối, cản trở, gây mất an ninh, trật tự nơi công cộng hoặc có hành vi vi phạm pháp luật khác thì người xử lý tài sản bảo đảm có quyền yêu cầu Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để giữ gìn an ninh, trật tự, bảo đảm cho người xử lý tài sản thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm”.

Vấn đề còn lại là làm thế  nào UBND bị ràng buộc một cách hữu hiệu vào trách nhiệm hỗ trợ? Nếu từ chối hỗ trợ, thì  liệu UBND có bị chế tài?  Trong khung cảnh pháp luật hiện hành, UBND địa phương, nói chung nhà  chức trách công, không có bổn phận và suy cho cùng cũng không có quyền huy động lực lượng trấn áp công cộng theo yêu cầu của người này, người nọ để thoả mãn lợi ích riêng tư của họ, dù đó là lợi ích chính đáng6. Lực lượng này được nuôi dưỡng bằng tiền của người đóng thuế và, trên nguyên tắc, chỉ phục vụ miễn phí cho lợi ích của cả cộng đồng, cả địa phương.

Để ràng buộc UBND địa phương vào một nghĩa vụ pháp lý, chủ nợ chỉ còn mỗi cách thương lượng để giao kết với UBND địa phương một hợp đồng dịch vụ. Theo hợp đồng này, UBND cam kết hỗ trợ ngân hàng trong việc thu hồi nợ bằng cách xử lý tài sản của người mắc nợ, đặc biệt là tài sản bảo đảm. Trong trường hợp cần thiết, UBND điều động các lực lượng trấn áp thuộc quyền quản lý với điều kiện ngân hàng trả chi phí thoả đáng.

Hậu quả tiêu cực của giải pháp về mặt xã hội: sự lan tràn của kiểu ứng xử phi chuẩn mực trong quá trình xử lý nợ. Không có công cụ pháp lý hữu hiệu để tự bảo vệ trong trường hợp người mắc nợ không hợp tác trong việc xử lý nợ, xử lý tài sản bảo đảm, các chủ nợ, trong trường hợp điền hình là các ngân hàng, buộc phải dựa vào các biện pháp mang tính thủ công và dân gian.

Trên thực tế, không ít ngân hàng dựa vào các công ty đòi nợ tư nhân, có khi cả các nhóm đòi nợ thuê không đăng ký hành nghề.  Các công ty hoặc nhóm đòi nợ này thường sử dụng các công cụ có tác dụng tạo sức ép đối với người mắc nợ, bao gồm thúc hối liên tục, thậm chí doạ dẫm dùng phương tiện cơ bắp, vũ khí. Trên cơ sở tính toán chi phí đòi nợ, nếu thấy con đường thu nợ dựa vào dịch vụ do UBND cung ứng quá phức tạp và tốn kém, các ngân hàng có thể chọn cách đòi nợ dựa vào sức mạnh tư nhân ấy. Xã hội nhận lấy hậu quả. 

1 Xem, ví dụ, F. Terré và Ph. Simler, Droit civil – Les biens, Précis Dalloz, Paris, 1992, tr. 30 và kế tiếp.    

2 Trong điều kiện thế chấp được đăng ký, người quan tâm đến tài sản có nghĩa vụ tìm hiểu kỹ tình trạng pháp lý của tài sản thông qua sổ đăng ký. Nếu biết tài sản được thế chấp mà vẫn chấp nhận mua, trao đổi,… thì người quan tâm cũng mặc nhiên chấp nhận hậu quả pháp lý phát sinh.

3 Điều 349 khoản 3, người thế chấp được quyền bán, thay thế tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu hàng hoá được bán, thì quyền yêu cầu thanh toán tiền, số tiền thu được hoặc hang hoá hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế.    

4 Nghị định này sau đó đã được sửa đổi, hoàn thiện một bước bởi Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012; nhưng riêng về thủ tục cưỡng chế việc xử lý tài sản bảo đảm, thì nội dung của nghị định cũ hầu như được giữ nguyên. 

5 Thông báo này khác với thông báo xử lý tài sản trước đó.

6 Riêng trong trường hợp lợi ích tư nhân bị xâm hại bởi hành vi phạm pháp quả tang, đặc biệt là xâm hại bằng vũ lực, thì công lực phải can thiệp mà thậm chí không cần được yêu cầu, bởi việc đó thuộc chức năng gìn giữ, bảo vệ trật tự công của nhà chức trách.  

Các văn bản liên quan