VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng

Thứ Sáu 21:42 03-12-2021

Kính gửi:  Cục Phát thanh truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông

Trả lời Công văn số 2393/BTTTT-PTTH&TTĐT ngày 06/07/2021 của Bộ Thông tin và Truyền thông về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng[1] (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp và chuyên gia, có ý kiến ban đầu như sau:

  1. Cung cấp thông tin xuyên biên giới

Điều 1.18 Dự thảo (sửa đổi Điều 22 Nghị định 72/2013/NĐ-CP) quy định về việc cung cấp thông tin xuyên biên giới của tổ chức, cá nhân nước ngoài. Tuy nhiên, quy định này cần được xem xét ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, Điều 22.3.d (sửa đổi) quy định tổ chức, cá nhân nước ngoài cần thành lập bộ phận chuyên trách để xử lý các yêu cầu của cơ quan chức năng Việt Nam và người sử dụng tại Việt Nam. Quy định được suy đoán nhằm yêu cầu các tổ chức nước ngoài phải có động thái nhanh chóng khi nhận được yêu cầu từ phía Việt Nam. Tuy nhiên, quy định là không cần thiết và không hợp lý, cụ thể:

  • Dự thảo đã có quy định xử lý vấn đề này: Dự thảo đã có quy định về thời hạn tiếp nhận và xử lý yêu cầu, đồng thời bổ sung các biện pháp kinh tế – kỹ thuật cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp không tuân thủ. Các quy định như vậy đã đủ đảm bảo việc tuân thủ của tổ chức, cá nhân nước ngoài;
  • Quy định này can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp: Doanh nghiệp, căn cứ theo quy định đã đề cập trên, sẽ tự chủ động bố trí nhân sự phù hợp để thực hiện. Việc yêu cầu thành lập bộ phận chuyên trách có thể hạn chế tính linh hoạt trong vận hành doanh nghiệp và gây tốn kém chi phí cho doanh nghiệp;

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.

Thứ hai, Điều 22.3.c (sửa đổi) quy định các mạng xã hội nước ngoài thực hiện thỏa thuận hợp tác về nội dung với cơ quan báo chí khi cung cấp thông tin dẫn lại. VCCI đồng tình rằng các hoạt động khai thác thông tin trên mạng cần tuân thủ quy định về sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, quy định này dự kiến sẽ có tác động rất lớn đến cả doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, ảnh hưởng đến nền kinh tế báo chí, trong khi lại chưa được đánh giá tác động đầy đủ. Mặt khác, quy định tại Dự thảo còn rất sơ sài, chưa hình dung và lường hết các vấn đề phát sinh trong thực tế. Trên thế giới, việc ban hành chính sách này chỉ mới dừng lại ở một số ít các nước (Úc, và đang được đề xuất tại Liên minh Châu Âu) và cũng chỉ được ban hành dưới dạng văn bản Luật (News Media Bargaining Code của Úc, Dự thảo Digital Services Act and the Digital Markets Act của EU). Do vậy, để đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc loại bỏ quy định này trong Dự thảo. Chính sách này có thể được cân nhắc soạn thảo trong phạm vi một Dự thảo Luật, với quá trình nghiên cứu, tham vấn kỹ lưỡng hơn.

  1. Nội dung vi phạm điều cấm

Dự thảo quy định trách nhiệm cho các chủ thể doanh nghiệp trong việc xử lý, phối hợp xử lý các thông tin vi phạm điều cấm tại Điều 5.1 Nghị định 72/2013/NĐ-CP, Điều 8.1 Luật An ninh mạng. Tuy nhiên, các quy định tại Nghị định 72/2013/NĐ-CP và Dự thảo cần xem xét ở một số nội dung như sau:

Thứ nhất, thiếu quy định phân loại nội dung vi phạm điều cấm theo tính chất. Điều 5.1 Nghị định 72/2013/NĐ-CP quy định nhiều hành vi bị cấm, nhưng tính chất của các hành vi lại khác nhau, có thể tạm chia làm hai loại như sau:

  • Hành vi xâm phạm lợi ích công (phá hoại an ninh quốc gia, vi phạm thuần phong mỹ tục, tiết lộ bí mật nhà nước…): hành vi bị cấm tuyệt đối;
  • Hành vi xâm phạm lợi ích tư (xuyên tạc, vu khống, xúc phạm tổ chức, cá nhân; giả mạo tổ chức, cá nhân, phát tán thông tin giả mạo, sai sự thật xâm hại đến quyền của tổ chức, cá nhân): các hành vi bị cấm tương đối, nghĩa là các nội dung này chỉ được coi là hành vi bị cấm nếu có hành vi phản đối từ người được cho rằng bị xâm phạm và được xác định bởi cơ quan có thẩm quyền;

Thứ hai, thiếu quy định liên quan đến trình tự, thủ tục xác định hành vi vi phạm. Hiện, các quy định tại Dự thảo đều yêu cầu doanh nghiệp xử lý thông tin vi phạm theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, quy định như vậy là không phù hợp, đặc biệt là với các hành vi xâm phạm lợi ích tư. Như trình bày ở trên, việc xem xét các hành vi vi phạm danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân cần giải quyết theo trình tự, thủ tục khác, cụ thể theo thông qua Tòa án. Khi đó, việc xử lý các nội dung này chỉ nên được thực hiện khi và chỉ khi có quyết định/ phán quyết có hiệu lực của Tòa án, chứ không phải từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Từ những phân tích trên, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định làm rõ các vấn đề trên.

Thứ ba, Điều 22.5.b (sửa đổi) quy định các tổ chức cung cấp thông tin xuyên biên giới có trách nhiệm ngăn chặn, gỡ bỏ nội dung vi phạm chậm nhất 24h, livestream vi phạm chậm nhất 3h. Các mạng xã hội trong nước thực hiện trách nhiệm tương tự, với thời gian xử lý ngắn hơn. Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, quy định về thời hạn xử lý thông tin như vậy là chưa phù hợp, có thể tạo nên gánh nặng vận hành cho doanh nghiệp. Thực tế, các thông tin vi phạm điều cấm rất đa dạng với tính chất, mức độ cũng rất khác nhau. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc sửa đổi quy định theo hướng phân loại thông tin vi phạm thành các mức độ khác nhau, và tương ứng với thời hạn thực hiện khác nhau.

  1. Xử lý hành vi vi phạm về sở hữu trí tuệ

Dự thảo bổ sung nhiều quy định liên quan đến trách nhiệm của các doanh nghiệp viễn thông, công nghệ trong việc phát hiện, xử lý các vi phạm về sở hữu trí tuệ, cụ thể:

  • Tổ chức, cá nhân nước ngoài cung cấp thông tin xuyên biên giới: xử lý khiếu nại, tạm khóa hoặc xóa các nội dung bị khiếu nại trong 24h (Điều 1.18 sửa đổi Điều 22.3.đ Nghị định 72/2013/NĐ-CP);
  • Doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho thuê lưu trữ dữ liệu: báo cáo cho Bộ Thông tin và Truyền thông khi phát hiện hoặc nhận được phản ánh về nội dung vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 1.18 sửa đổi Điều 22.3 Nghị định 72/2013/NĐ-CP);
  • Cơ quan nhà nước có thể sử dụng biện pháp kỹ thuật để ngăn chăn nội dung thông tin vi phạm quy định về sở hữu trí tuệ (Điều 1.29 sửa đổi Điều 23i.4 Nghị định 72/2013/NĐ-CP);
  • Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung tâm dữ liệu: thông báo cho Bộ TTTT nếu phát hiện vi phạm về sở hữu trí tuệ (Điều 1.75 bổ sung Điều 44k Nghị định 72/2013/NĐ-CP)

Tuy nhiên, quy định này chưa phù hợp và có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc thực thi. Tương tự phân tích về hành vi xâm phạm lợi ích tư tại Mục 2 ở trên, các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là hành vi xâm phạm lợi ích tư. Việc xác định một nội dung có xâm phạm sở hữu trí tuệ hay không cần được xử lý theo trình tự, thủ tục của Luật Sở hữu trí tuệ, theo thẩm quyền phù hợp. Các doanh nghiệp trên không thể có đủ thông tin và bằng chứng, và cũng không có thẩm quyền xác định ai có quyền trong các trường hợp này. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ các quy định trên.

  1. Phát sinh doanh thu

Dự thảo bổ sung một số quy định với tài khoản, trang, nhóm cộng đồng, kênh nội dung có phát sinh doanh thu (dưới mọi hình thức) như Điều 22.3.e sửa đổi, Điều 23.6.g sửa đổi. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng và không rõ mục tiêu quản lý:

– Nội hàm quá rộng: Hoạt động trên không gian mạng có thể mang lại doanh thu cực kỳ đa dạng và từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn hình thức kiếm doanh thu từ mạng xã hội phổ biến hiện nay là các tài khoản mạng xã hội quảng cáo cho một nhãn hàng, thể hiện dưới dạng video hoặc bài viết. Khi đó, rất khó cho mạng xã hội có thể phát hiện được các nguồn doanh thu này, do hình thức thể hiện không khác gì các bài đăng thông thường và nguồn chi trả từ nhãn hàng (độc lập với mạng xã hội);

– Chưa rõ mục tiêu quản lý: Hiện nay, pháp luật về quản lý thuế (Luật Quản lý thuế 2019 và các văn bản hướng dẫn) đã được xây dựng đầy đủ, hoàn thiện nhằm thu thập thông tin và thu thuế từ các đối tượng này. Việc yêu cầu các tài khoản, trang, nhóm, kênh nội dung phải đăng ký thêm với Bộ Thông tin và Truyền thông có thể dẫn đến trùng lặp về thủ tục hành chính mà không rõ mục tiêu quản lý là gì;

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ các quy định liên quan đến tài khoản phát sinh doanh thu.

  1. Cấp phép trò chơi điện tử (game)

Điều 31 sửa đổi (Điều 1.40 Dự thảo) quy định việc cấp phép với trò chơi điện tử (Giấy phép phát hành với trò chơi điện tử G1, Giấy chứng nhận phát hành trò chơi điện tử G2, G3, G4 trên mạng). Quy định này cần xem xét ở các nội dung sau:

Thứ nhất, một số nội dung trong hồ sơ xem xét cấp phép chưa phù hợp. Các điều kiện cấp phép có thể được chia làm hai loại: (i) các yêu cầu với doanh nghiệp phát hành game (nhân sự, tài chính, kỹ thuật…); (ii) các yêu cầu với game (nội dung, kịch bản trò chơi). Việc quy định các điều kiện với doanh nghiệp (loại thứ nhất) không phù hợp với Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh thuộc phạm vi quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành theo Quyết định 1994/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/11/2021. Theo đó, Quyết định 1994/QĐ-TTg đã đưa ra phương án bãi bỏ toàn bộ các thủ tục cấp Giấy phép cung cấp dịch vụ trò chơi điện tử trên mạng. Trong khi đó, các quy định về điều kiện với doanh nghiệp nêu trên tại Dự thảo lại có tính chất và nội dung tương tự với các quy định dự kiến được bãi bỏ. Việc này có thể dẫn đến tình trạng cắt giảm, đơn giản hóa không thực chất mà chỉ chuyển từ giấy phép này sang giấy phép khác. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát và loại bỏ toàn bộ các điều kiện cấp phép có liên quan đến điều kiện vận hành, hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ hai, Dự thảo hiện đang quy định tất cả các trò chơi điện tử đều phải thực hiện thủ tục hành chính trước khi phát hành ra thị trường với cơ quan nhà nước. Có một thực tế là bên cạnh những game phát hành thành công, có nhiều người chơi, thì cũng có rất nhiều game nhỏ có lượng người tải thấp, ít có khả năng gây ra tác hại cho xã hội. Tuy nhiên, việc áp dụng chính sách quản lý đồng nhất giữa tất cả các trò chơi điện tử dẫn đến thực trạng các game mới phát hành hoặc các nhà phát triển game non trẻ (startup) đang bị quản lý quá chặt, dẫn đến gặp khó khăn trong việc đưa sản phẩm ra thị trường. 

Thay vào đó, việc quản lý những game nhỏ này có thể thực hiện bằng biện pháp hậu kiểm thay vì tiền kiểm như hiện tại, qua đó giảm nhẹ gánh nặng hành chính, giúp sản phẩm thuận tiện trong việc phát hành ra thị trường. Doanh nghiệp, cá nhân phát hành game ra thị trường sẽ có trách nhiệm kiểm soát các nội dung kịch bản game, đặc biệt là các nội dung liên quan đến chính trị, chủ quyền lãnh thổ, do việc vi phạm, dù là nhỏ nhất, sẽ dẫn đến game bị thu hồi và gây thiệt hại doanh thu cho họ.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc áp dụng phương pháp phân loại quản lý trong cấp phép trò chơi, tương tự chính sách quản lý mạng xã hội đã được đưa ra.

  1. Hiển thị các thông tin trong trò chơi điện tử

Dự thảo quy định một số nghĩa vụ hiển thị thông tin trong trò chơi điện tử, cụ thể:

  • Hiển thị kết quả phân loại trò chơi điện tử trên màn hình thiết bị trong khi người chơi sử dụng dịch vụ (Điều 31a.2.c sửa đổi);
  • Hiển thị thông tin khuyến cáo với nội dung “Chơi quá 180 phút một ngày sẽ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe” tại vị trí dễ nhận biết ở trên màn hình thiết bị của người chơi trong suốt quá trình chơi (Điều 32d.3.d sửa đổi);

VCCI đồng tình với mục tiêu của các quy định trên nhằm cung cấp thông tin cho người chơi (và người giám hộ), từ đó giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực của việc chơi game. Tuy nhiên, các yêu cầu này lại chưa thực sự phù hợp do việc hiển thị các thông tin trên trong suốt quá trình chơi có thể ảnh hưởng trực tiếp đến trải nghiệm của người chơi do chiếm mất một khoảng không gian trên màn hình, đặc biệt với trường hợp các game trên điện thoại di động (vốn có diện tích màn hình tương đối hạn chế). Thay vào đó, việc thông tin cho người chơi có thể thực hiện như sau: (i) hiển thị phân loại game khi bắt đầu khởi động trò chơi; (ii) có biện pháp kỹ thuật để thông báo cho người chơi khi hết 180 phút chơi game. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định này theo hướng trên.

  1. Trách nhiệm từ chối kết nối với game chưa được cấp phép

Điều 1.61, Điều 1.62 Dự thảo quy định các doanh nghiệp cung cấp máy chủ, cho thuê chỗ đặt máy chủ, doanh nghiệp viễn thông, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Internet, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hỗ trợ thanh toán có trách nhiệm chủ động từ chối, tạm ngừng hoặc ngừng kết nối với các game chưa được cấp phép. Tuy nhiên, quy định này là chưa phù hợp do các doanh nghiệp này khó có thể khả năng xác minh việc sản phẩm game đó đã được cấp phép hay chưa. Trách nhiệm từ chối kết nối chỉ phù hợp trong trường hợp doanh nghiệp nhận được yêu cầu từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền (đã được quy định trong Dự thảo). Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định trên.

  1. Trách nhiệm của kho ứng dụng

Điều 22.3.i sửa đổi (Điều 1.18 Dự thảo) quy định các kho ứng dụng có trách nhiệm tuân thủ các quy định về quản lý nội dung, thanh toán theo quy định pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ràng ở điểm các quy định về quản lý nội dung và thanh toán mà kho ứng dụng cần tuân thủ là gì, được quy định ở văn bản pháp luật nào. Do vậy, để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung làm rõ quy định này.

  1. Phạm vi điều chỉnh về Kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu

Chương VI Dự thảo quy định về Kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu. Theo đó, hai nội dung được quy định gồm: (i) các quy định liên quan đến quản lý nhà nước: thủ tục đăng ký hoạt động (điều kiện kinh doanh, thông báo), trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ cơ quan nhà nước; (ii) quy định liên quan đến quan hệ thương mại giữa thương nhân kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu và khách hàng. Việc quy định nội dung liên quan đến quan hệ thương mại giữa hai chủ thể dân sự là không phù hợp với quy định của Luật Thương mại, trong đó cho phép doanh nghiệp được tự do thỏa thuận nội dung hợp đồng và các quyền và nghĩa vụ liên quan. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ các quy định liên quan đến hợp đồng, quyền, nghĩa vụ trong hợp đồng trong Dự thảo (chẳng hạn, Điều 44g; khoản 1, 3 Điều 44l).

  1. Cấp phép kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu

Điều 44đ sửa đổi (Điều 1.75 Dự thảo) quy định việc cấp phép với hoạt động kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu với các thương nhân trong nước. Tuy nhiên, quy định này dường như không cần thiết. Hoạt động kinh doanh này là quan hệ giữa các doanh nghiệp với mối quan hệ tương đối bình đẳng. Các doanh nghiệp khách hàng có thể đủ khả năng giám sát, kiểm tra chất lượng của trung tâm dữ liệu, cũng như lựa chọn sử dụng dịch vụ giữa nhiều nhà cung cấp khác nhau. Việc can thiệp của nhà nước nhằm tiền kiểm chất lượng của trung tâm dữ liệu thông qua việc cấp phép là không cần thiết. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng chỉ yêu cầu doanh nghiệp thực hiện thông báo khi đi vào hoạt động (bao gồm thông tin liên hệ và cam kết đáp ứng đủ các điều kiện kinh doanh).[2] Việc này cũng sẽ góp phần giảm thiểu thủ tục hành chính, cân bằng nghĩa vụ giữa thương nhân trong nước và thương nhân nước ngoài.[3]

  1. Trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu

Thứ nhất, Điều 44k.1 sửa đổi (Điều 1.75 Dự thảo) quy định về trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu. Các trách nhiệm này gồm có: (i) thông báo khi phát hiện hành vi vi phạm (khoản 1); (ii) tạm ngừng hoặc ngừng cung cấp dịch vụ khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước (khoản 3). Tuy nhiên, theo phản ánh của doanh nghiệp, các quy định này là không phù hợp với thực tiễn hoạt động của ngành nghề này. Trung tâm dịch vụ dữ liệu có nhiệm vụ cho thuê dịch vụ lưu trữ và cung cấp nền tảng triển khai ứng dụng. Các thương nhân này sẽ cấp cho khách hàng một công cụ “key” để quản lý phần lưu trữ của mình. Nguyên tắc quan trọng nhất mà các doanh nghiệp này phải tuân thủ là bảo vệ dữ liệu của khách hàng, và do đó không thể có quyền truy cập, tiếp cận dữ liệu của khách hàng. Việc yêu cầu doanh nghiệp phát hiện hành vi vi phạm là không hợp lý vì doanh nghiệp không có quyền truy cập các dữ liệu này. Việc này cũng khiến khách hàng của doanh nghiệp cảm thấy lo sợ việc an toàn, bảo mật của dữ liệu lưu trữ. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.

Thứ hai, Điều 44k.3 sửa đổi quy định thương nhân có trách nhiệm tạm ngừng hoặc ngừng cung cấp dịch vụ của khách hàng sử dụng có hành vi vi phạm pháp luật. Đây là biện pháp rất mạnh, và có thể ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Thay vào đó, theo đề xuất của doanh nghiệp, quy định này có thể cân nhắc sửa đổi theo hướng áp dụng biện pháp “đóng băng” dữ liệu (theo quy trình về bằng chứng số). Việc này sẽ cung cấp bằng chứng cho cơ quan nhà nước nhằm hỗ trợ cho quá trình điều tra. Vì vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng thương nhân có trách nhiệm đóng băng dữ liệu liên quan theo yêu cầu của cơ quan điều tra.

Thứ ba, Điều 44k.4 sửa đổi quy đinh dữ liệu của tổ chức, cá nhân Việt Nam phải được lưu trữ tại Việt Nam. Tuy nhiên, quy định này có thể chồng chéo với các quy định khác về lưu trữ dữ liệu tại Luật An ninh mạng. Theo đó, Điều 26.3 Luật An ninh mạng đã có quy định về vấn đề này và giao cho Chính phủ hướng dẫn chi tiết (trong Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng). Việc Dự thảo này cũng quy định về vấn đề này sẽ có thể tạo ra sự chồng chéo, thiếu thống nhất trong quy định liên quan đến nghĩa vụ này.

Hơn nữa, quy định tại Dự thảo dường như đã mở rộng hơn về phạm vi so với Luật An ninh mạng. Điều 26.3 Luật An ninh mạng yêu cầu lưu trữ dữ liệu do người sử dụng dịch vụ (người dùng cuối cùng, chẳng hạn như thông tin cá nhân của người sử dụng dịch vụ mạng xã hội, app thương mại điện tử…) tại Việt Nam. Trong khi đó, Điều 44k.4 Dự thảo yêu cầu lưu trữ dữ liệu do bên sử dụng dịch vụ trung tâm dữ liệu, tức doanh nghiệp là khách hàng của trung tâm dữ liệu, bất kỳ dữ liệu này là của riêng doanh nghiệp, của khách hàng nước ngoài thuê của thương nhân Việt Nam…

Từ những phân tích trên, để đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định trên. Nghĩa vụ này nên được quy định và thực hiện thống nhất theo pháp luật về an ninh mạng.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng . Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.

[1] Bản góp ý này dựa trên Dự thảo phiên bản thẩm định ngày 26/11/2021 tại Bộ Tư pháp

[2] Việc này vẫn đáp ứng yêu cầu của thủ tục liên quan đến điều kiện kinh doanh theo Điều 7.6.đ Luật Đầu tư 2020.

[3] Dự thảo quy định các thương nhân kinh doanh dịch vụ trung tâm dữ liệu nước ngoài chỉ cần thực hiện thủ tục thông báo cho cơ quan nhà nước.