VCCI_Góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Phòng chống thiên tai và Luật Đê điều

Thứ Năm 18:05 18-07-2019

Kính gửi: Tổng cục Phòng chống thiên tai

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn

Trả lời Công văn số 3123/BNN-PCTT ngày 07/05/2019 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Phòng chống thiên tai và Luật Đê điều (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có ý kiến ban đầu như sau:

  1. Quỹ phòng, chống thiên tai

Quy định về Quỹ phòng, chống thiên tai đã được đưa ra từ Luật Phòng, chống rủi ro thiên tai năm 2013 và Nghị định 94/2014/NĐ-CP năm 2014. Qua 5 năm triển khai, VCCI nhận được nhiều ý kiến doanh nghiệp về sự không cần thiết, lãng phí, tốn kém và thiếu minh bạch của Quỹ phòng, chống thiên tai. Có doanh nghiệp phải nộp hàng trăm triệu đồng cho quỹ này, bao gồm cả nghĩa vụ của chính doanh nghiệp và nghĩa vụ nộp thay người lao động. Nhưng nhiều doanh nghiệp khác không bị thu nộp mà không rõ lý do vì sao lại có sự khác biệt. Quan trọng hơn, các doanh nghiệp cho rằng đang bị thu một cách bất hợp lý và không biết được số tiền mình nộp đang được quản lý và sử dụng như thế nào, có hiệu quả hay không.

Về thu quỹ

Theo báo cáo số 200/BC-ƯPKP của Cục ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai ngày 25/06/2019, tổng số tiền thu được ở các tỉnh thành phố trong 5 năm qua là 2.360 tỷ đồng, riêng trong năm 2018 là 826 tỷ đồng. Tuy nhiên, việc thực hiện thu quỹ hiện nay rất kém.

  • Thứ nhất, sau 5 năm thực hiện Nghị định 94, vẫn có 2 tỉnh thành phố không thành lập được Quỹ, có 8 tỉnh thành phố không tiến hành thu tiền cho Quỹ.
  • Thứ hai, năng lực thu quỹ hiện nay đạt rất thấp. Theo tính toán, số tiền khả thu năm 2018 là 5.807 tỷ đồng[1], nhưng trên thực tế năm 2018 chỉ thu được 826 tỷ đồng, tức là chỉ đạt 14% nguồn khả thu.

Việc thu quỹ yếu kém như vậy đã tạo ra một sự bất bình đẳng giữa những doanh nghiệp bị thu tiền và những doanh nghiệp không bị thu tiền, giữa doanh nghiệp ở tỉnh này và ở tỉnh khác

Về sử dụng quỹ

Việc sử dụng quỹ hiện cũng đang trong tình trạng yếu kém. Trong 5 năm qua các địa phương trên cả nước mới sử dụng 918 tỷ đồng và còn tồn dư 1.442 tỷ đồng. Như vậy, số chi mới chỉ bằng 39% tổng số thu. Nói cách khác, 1.442 tỷ đồng tiền đáng lý ra được sử dụng trong nền kinh tế thì hiện đang bị đóng băng trong Quỹ. Nếu coi số tiền này dùng để dự trữ phòng khi có thiên tai lớn thì cũng không thực sự chính xác. Trong 5 năm qua, quỹ ở tất cả các địa phương đều có kết dư, số tiền chi trong năm luôn thấp hơn số tiền thu được trong năm đó. Như vậy, thực tiễn cho thấy nhu cầu và năng lực sử dụng quỹ rất thấp.

Có 7 địa phương trong 5 năm qua chỉ thu chứ không chi quỹ. Tiền của các doanh nghiệp và người lao động tại các địa phương này đang bị chiếm dụng mà không phục vụ mục đích cụ thể nào, gồm Điện Biên (thu 8 tỷ), Yên Bái (thu 3,4 tỷ đồng), Hải Dương (thu 9,8 tỷ đồng), Hà Nam (thu 18 tỷ đồng), Ninh Bình (thu 10,5 tỷ đồng), Quảng Ngãi (thu 4,6 tỷ đồng), Lâm Đồng (thu 13,6 tỷ đồng).

Có 7 địa phương khác có thu, nhưng số tiền sử dụng rất thấp, không đạt 10% so với số thu, gồm Bắc Kạn (thu 15 tỷ đồng, chi 37 triệu đồng), Vĩnh Phúc (thu 14 tỷ đồng, chi 712 triệu đồng), Hải Phòng (thu 47 tỷ đồng, chi 610 triệu đồng), Kon Tum (thu 10,6 tỷ đồng, chi 800 triệu đồng), Gia Lai (thu 13,4 tỷ đồng, chi 662 triệu đồng), Vũng Tàu (thu 26,7 tỷ đồng, chi 15 triệu đồng), Sóc Trăng (thu 7,5 tỷ đồng, chi 412 triệu đồng).

Như vậy, việc sử dụng quỹ qua các con số trên thấy rằng mức độ hiệu quả chưa cao, một nguồn lực xã hội đang bị đóng băng.

Về công khai thông tin quỹ

Nghị định 94 quy định các địa phương phải công khai thông tin về sử dụng quỹ, và đây cũng là nội dung mà rất nhiều doanh nghiệp quan tâm vì họ muốn biết xem tiền đóng góp của mình có được sử dụng hiệu quả cho mục tiêu phòng tránh thiên tai hay không. Trên thực tế, việc thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin của các địa phương rất kém.

Báo cáo số 200 cũng cho thấy, chỉ có 42 tỉnh thành nộp báo cáo về việc thu và sử dụng quỹ về Cục. Tức là có nhiều địa phương không báo cáo trước cơ quan cấp trên, chứ chưa nói đến việc báo cáo trước người dân và doanh  nghiệp.

VCCI tiến hành tìm kiếm thông tin về báo cáo sử dụng Quỹ tại website của các địa phương. Kết quả cho thấy, chỉ có một địa phương (Bình Dương) có báo cáo chi tiết đến từng dự án/hoạt động sử dụng quỹ để doanh nghiệp và người dân có thông tin để giám sát trên thực tế. Có hai địa phương (Quảng Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh) có báo cáo về số tiền chi cho các quận, huyện, đơn vị trong tỉnh, nhưng không chi tiết từng hoạt động. Tất cả các địa phương khác không có thông tin báo cáo về việc sử dụng quỹ.

Như vậy, người dân và doanh nghiệp dù phải đóng tiền Quỹ nhưng hầu như không được biết tiền của mình được sử dụng thế nào.

Từ phân tích trên có thể thấy chính sách về Quỹ phòng chống rủi ro thiên tai hiện tại chưa mang được nhiều tác dụng như kỳ vọng, nhưng đã bộc lộ nhiều bất cập. Thứ nhất, chính sách này tạo sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp khi tồn tại phổ biến tình trạng có doanh nghiệp phải đóng, doanh nghiệp không. Thứ hai, các Quỹ phòng chống thiên tai đang khiến một lượng tiền lớn (1.442 tỷ đồng) từ hoạt động kinh doanh, luân chuyển trong nền kinh tế để tạo ra giá trị thì lại thành dạng bị đóng băng, gây lãng phí nguồn lực xã hội. Thứ ba, các cơ quan thực thi chính sách này chưa đáp ứng yêu cầu về minh bạch, chưa cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân và doanh nghiệp biết việc sử dụng trên thực tế như thế nào. Chính những điều này khiến nhiều doanh nghiệm không đồng tình, thậm chí bức xúc về Quỹ phòng chống thiên tai.

Với những lý do trên, đề nghị cơ quan soạn thảo nghiêm túc đánh giá lại hiện trạng, hiệu quả và hệ quả của chính sách Quỹ phòng chống thiên tai và bãi bỏ chính sách này trong Luật Phòng chống rủi ro thiên tai.

  1. Các hoạt động có khả năng gây ra rủi ro thiên tai hoặc làm gia tăng rủi ro thiên tai

Điều 18a của Dự thảo quy định về kiểm soát an toàn phòng, chống thiên tai trong đó quy định cả những biện pháp áp dụng đối với công trình phát triển hạ tầng kỹ thuật, nhà ở, các hoạt động sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, khai thác tài nguyên khoáng sảncác hoạt động khác có khả năng gây ra rủi ro thiên tai hoặc làm gia tăng rủi ro thiên tai. Tuy nhiên, Dự thảo lại chưa có quy định thế nào là hoạt động có khả năng gây ra rủi ro thiên tai hoặc làm gia tăng rủi to thiên tai. Đây là khái niệm rất quan trọng, giúp các doanh nghiệp biết được rằng mình có thuộc diện phải đáp ứng các quy định tại Điều 18a không. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo giải thích rõ khái niệm này hoặc có danh sách liệt kê các hoạt động có khả năng gây ra rủi ro thiên tai hoặc làm gia tăng rủi ro thiên tai.

  1. Hoạt động nạo vét luồng lạch trong phạm vi bảo vệ đê điều

Điều 25.2 của Dự thảo bổ sung trường hợp nạo vét luồng lạch trong phạm vi bảo vệ đê điều thì phải xin ý kiến và được sự đồng ý bằng văn bản của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hiện nay việc nạo vét luồng lạch đã được quy định tại Nghị định 159/2018/NĐ-CP về quản lý hoạt động nạo vét trong vùng nước cảng biển và vùng nước đường thủy nội địa. Trong đó, Điều 4.4. của Nghị định 159 quy định “Trường hợp các dự án nạo vét cơ bản thuộc đường thủy nội địa có đê còn phải lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý; đối với dự án nạo vét cơ bản ở các tuyến đường thủy nội địa có đê từ cấp III đến cấp đặc biệt hoặc thuộc địa bàn từ 02 tỉnh trở lên, phải lấy ý kiến của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trước khi phê duyệt dự án.” Quy định tại Nghị định 159 là tương đối phù hợp với thực tiễn vì có sự phân loại các cấp đê và được thực hiện trong giai đoạn trước khi phê duyệt dự án. Đề nghị cơ quan soạn thảo điều chỉnh quy định của Dự thảo tương tự như quy định tại Nghị định 159.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Phòng chống thiên tai và Luật Đê điều. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan./.

[1] Theo ước tính, tổng số vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là 15 triệu tỷ đồng. Với mức thu 0,02% giá trị tài sản, nguồn có thể thu từ doanh nghiệp vào khoảng 3.000 tỷ đồng mỗi năm. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2018 cả nước hiện có khoảng 54 triệu người lao động, với 23,5 triệu người có hưởng lương và 30,5 triệu người không hưởng lương. Với mức đóng 01 ngày lương mỗi người mỗi năm theo lương tối thiểu vùng năm 2018 (lấy mức thấp nhất là 100.000 đồng/ngày) thì tổng số thu từ người lao động có lương vào khoảng 2.350 tỷ đồng. Số thu từ người lao động không hưởng lương vào khoảng 457 tỷ đồng. Như vậy, tổng thu lớn nhất năm 2018 có thể đạt là 5.807 tỷ đồng.