VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư hướng dẫn nội dung đầu tư, hỗ trợ đầu tư thực hiện nhiệm vụ "Phát triển sản xuất giống" theo Quyết định số 703/QĐ-TTg ngày 28/5/2020 của Thủ tướng Chính phủ
VCCI_Rà soát, đánh giá việc thực hiện Nghị định 51/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 158/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa
VCCI_Góp ý góp ý Dự thảo Báo cáo và Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 – 2025
Kính gửi: Văn phòng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Ngày 30/6/2021, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) nhận được Công văn số 2625/BGDĐT-VP về việc đề nghị góp ý Dự thảo Báo cáo và Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 – 2025 (sau đây gọi tắt là Dự thảo) trước ngày 28/6/2021. Vì thời hạn lấy ý kiến quá gấp, VCCI không thể triển khai lấy ý kiến rộng rãi cộng đồng doanh nghiệp, đối tượng chịu tác động của Dự thảo, trên cơ sở nghiên cứu của cán bộ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số ý kiến sơ bộ ban đầu như sau:
Về cơ bản, Dự thảo đã đề ra các phương án đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, dự báo sẽ cắt giảm đáng kể chi phí tuân thủ của doanh nghiệp. Các phương án đề xuất trong Dự thảo đã thể hiện được tinh thần cải cách của cơ quan soạn thảo.
Để các phương án đề xuất thực sự hiệu quả, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét, cân nhắc một số vấn đề sau:
- Về thủ tục thành lập và cho phép hoạt động của các cơ sở giáo dục
Theo quy định của pháp luật về giáo dục, các cơ sở giáo dục (trường mẫu giáo, trường mầm non, nhà trẻ hoạt động giáo dục; trường tiểu học; trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông; trung tâm hỗ trợ và phát triển giáo dục hòa nhập; trung tâm ngoại ngữ, tin học) muốn hoạt động phải thực hiện hai nhóm thủ tục để có được hai loại giấy phép: Giấy phép thành lập và Giấy phép hoạt động.
Đối với giấy phép thành lập, điều kiện chủ yếu là phải phù hợp với quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục và phải có đề án về việc thành lập trường. Sau khi cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập thì nhà đầu tư sẽ chứng minh đáp ứng các điều kiện hoạt động và thực hiện thủ tục để được phép hoạt động.
Cách thức thiết kế quy định này tạo gánh nặng về thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư. Đứng về phía cơ quan quản lý nhà nước, mục tiêu cần kiểm soát là xác định việc thành lập các cơ sở giáo dục có phù hợp với các quy hoạch về mạng lưới cơ sở giáo dục (nếu có) và nhà đầu tư có đáp ứng được các điều kiện theo quy định không. Với tính chất này thì có thể thiết kế theo hướng: đặt ra điều kiện chung để được thành lập và hoạt động giáo dục (trong đó có các điều kiện về quy hoạch, điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất; …), nhà đầu tư sẽ soi chiếu vào quy định để biết mình cần đáp ứng điều kiện gì và chuẩn bị hồ sơ tương ứng. Cơ quan nhà nước cũng dựa vào hồ sơ để thẩm định và có thể tiến hành thẩm tra trên thực tế, nếu nhà đầu tư đáp ứng điều kiện sẽ được cấp phép.
Như vậy, đề đảm bảo thuận lợi và có tính cải cách, đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét thiết kế lại cơ chế cấp phép hoạt động của các cơ sở hoạt động giáo dục theo hướng gộp thủ tục cho phép thành lập và cho phép hoạt động vào thành một thủ tục.
Hiện tại, Dự thảo cũng đã đề xuất gộp hai thủ tục này vào thành một thủ tục, nhưng chỉ áp dụng đối với một số thủ tục (ví dụ như thủ tục cho phép thành lập và hoạt động của trung tâm ngoại ngữ, tin học học) mà chưa áp dụng đồng bộ các thủ tục cấp phép đối với các loại hình cơ sở giáo dục khác.
- Về điều kiện kinh doanh dự kiến cắt giảm
Nghị định 46/2017/NĐ-CP quy định về điều kiện hoạt động của một số cơ sở giáo dục như trường mẫu giáo, trường mầm non, nhà trẻ; trường tiểu học; trường trung học cơ sở, trung học phổ thông chưa rõ ràng về điều kiện tài chính, cơ sở vật chất, nhân lực (ví dụ, trường mẫu giáo, trường mầm non, nhà trẻ hoạt động giáo dục phải “bảo đảm về an toàn, vệ sinh môi trường; có đủ nguồn lực tài chính; có thiết bị, đồ chơi, đồ dùng, tài liệu chăm sóc, giáo dục trẻ em theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; có đội ngũ quản lý, giáo viên và nhân viên đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu và đạt tiêu chuẩn bảo đảm thực hiện chương trình giáo dục mầm non và tổ chức hoạt động giáo dục”).
Dự thảo đề xuất phương án sẽ quy định rõ ràng, chi tiết điều kiện hoặc dẫn chiếu văn bản quy định cụ thể về các điều kiện trên. Phương án này sẽ khiến quy định trở nên minh bạch, tuy nhiên việc yêu cầu cụ thể về năng lực tài chính, hay số lượng nhân lực, cơ sở vật chất sẽ dẫn tới nguy cơ tạo ra rào cản khắt khe hơn cho các nhà đầu tư đầu tư vào lĩnh vực này. Do đó, đề nghị cơ quan soạn thảo bên cạnh việc quy định rõ ràng, chi tiết quy định về điều kiện kinh doanh còn phải đánh giá về tính hợp lý của điều kiện đó để xem xét nên giữ hay bỏ các điều kiện này.
Ví dụ, đối với điều kiện “có đủ nguồn lực tài chính”, nếu quy định rõ ràng sẽ phải áp đặt một số lượng vốn cụ thể mà cơ sở giáo dục buộc phải đáp ứng. Điều này dường như thực sự không cần thiết, bởi vì để có thể xây dựng được cơ sở vật chất theo quy định và duy trì hoạt động thì cơ sở giáo dục tự bản thân phải có nguồn lực tài chính. Hơn nữa, rất khó để xác định một chuẩn chung về tài chính áp dụng cho tất cả các trường trong phạm vi cả nước. Vì vậy, quy định “có đủ nguồn lực tài chính” là không cần thiết, cần xem xét để bãi bỏ thay vì quy định rõ ràng, cụ thể về điều kiện này.
- Về Thông tư 21/2018/TT-BGDĐT
Thời gian qua, VCCI nhận được phản ánh của doanh nghiệp về những vướng mắc liên quan đến quy định tại Thông tư 21/2018/TT-BGDĐT, cụ thể như sau:
- Khái niệm về “người bản ngữ”
Khoản 1 Điều 18 Thông tư 21/2018/TT-BGDĐT quy định “Giáo viên của trung tâm ngoại ngữ, tin học là người làm nhiệm vụ giảng dạy, hướng dẫn thực hành, gồm giáo viên cơ hữu, giáo viên hợp đồng giáo viên là người Việt Nam, giáo viên là người bản ngữ (đối với từng ngoại ngữ cụ thể), người nước ngoài”.
Tuy nhiên, Thông tư không quy định như thế nào được cho là “người bản ngữ” vì vậy tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, gây lúng túng trong quá trình thực hiện.
- Tiêu chuẩn của giáo viên
Khoản 4, 5, 6 Điều 18 Thông tư 21/2018/TT-BGDĐT quy định về tiêu chuẩn của giáo viên: “giáo viên là người nước ngoài dạy tin học: có bằng cao đẳng tin học trở lên và chứng chỉ đào tạo dạy tin học phù hợp”; “giáo viên là người bản ngữ dạy ngoại ngữ (đối với từng ngoại ngữ cụ thể): có bằng cao đẳng trở lên và chứng chỉ đào tạo dạy ngoại ngữ phù hợp”; “giáo viên là người nước ngoài đủ điều kiện dạy ngoại ngữ khi có bằng ngoại ngữ trở lên và chứng chỉ đào tạo dạy ngoại ngữ phù hợp hoặc có bằng cao đẳng trở lên, chứng chỉ năng lực ngoại ngữ từ bậc 5 trở lên theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương và chứng chỉ đào tạo dạy ngoại ngữ phù hợp”.
“Phù hợp” là quy định mang tính định tính vì vậy tạo ra nhiều cách hiểu khác nhau, gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong quá trình triển khai thực hiện.
Theo phản ánh của doanh nghiệp thì hiện tại cũng không có bất kỳ quy định nào về việc đơn vị nào được cấp Chứng chỉ năng lực ngoại ngữ từ bậc 5 trở lên theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam và / hoặc thế nào là tương đương, đơn vị nào được cấp chứng chỉ tương đương, hình thức chứng chỉ như thế nàovà các chứng chỉ của các đơn vị ở nước ngoài có được thừa nhận là tương đương hay không?
- Quy định có tính chất là điều kiện kinh doanh
Điều 6 Thông tư 21/2018/TT-BGDĐT quy định về điều kiện của giám đốc trung tâm ngoại ngữ, tin học. Quy định này có tính chất là điều kiện kinh doanh vì vậy không phù hợp quy định tại cấp Thông tư.
Mặt khác, Điều 6 Thông tư 21/2018/TT-BGDĐT cũng cần được xem xét ở các điểm:
- Tính thống nhất với Nghị định 46/2017/NĐ-CP, Nghị định 135/2018/NĐ-CP khi các văn bản này không quy định về điều kiện của giám đốc trung tâm ngoại ngữ;
- Tính minh bạch: một số điều kiện về giám đốc trung tâm chưa đủ rõ ràng, ví dụ “có năng lực quản lý”, “có kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo” không rõ như thế nào thì được cho là đáp ứng các điều kiện này;
- Tính hợp lý: quy định “nhiệm kỳ giám đốc trung tâm ngoại ngữ, tin học là 05 năm” là không cần thiết vì đây là vấn đề nội bộ của doanh nghiệp.
Tóm lại, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung vào Dự thảo các phương án sửa đổi quy định tại Thông tư 21/2018/TT- BGDĐT, ít nhất là giải quyết các vấn đề được nêu ở trên.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Báo cáo và Dự thảo Phương án cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 – 2025. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan./.