VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử

Thứ Bảy 09:14 12-12-2020

Kính gửi:  Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số  – Bộ Công Thương

Trả lời Công văn số 8219/BCT-TMĐT ngày 29/10/2020 của Bộ Công Thương về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp và chuyên gia, có ý kiến ban đầu như sau:

  1. Phân loại quản lý hoạt động thương mại điện tử

Hiện nay, nội dung quản lý hoạt động thương mại điện tử với các nhóm doanh nghiệp có quy mô nhỏ, doanh nghiệp start up còn mang tính hành chính bằng các thủ tục thông báo, cấp phép, cụ thể:

  • Thủ tục thông báo với website thương mại điện tử bán hàng;
  • Thủ tục cấp phép với sàn thương mại điện tử có quy mô nhỏ;

Cách thức quản lý như vậy với các doanh nghiệp nhỏ là chưa hợp lý, khiến các doanh nghiệp này bị quản lý quá chặt, tạo ra gánh nặng tuân thủ lớn. Vấn đề này đã được trình bày đầy đủ tại Công văn 1199/PTM-PC ngày 28/07/2020 của VCCI gửi đến Quý Cơ quan. Đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu, cân nhắc.

  1. Phạm vi điều chỉnh

VCCI đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã có quy định loại trừ điều chỉnh với các giao dịch điện tử đã được quy định tại pháp luật chuyên ngành, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật. Tuy nhiên, quy định này có phần chưa hợp lý do các văn bản pháp luật chuyên ngành không bao quát đủ những nội dung liên quan đến giao dịch điện tử, chẳng hạn như vấn đề giao kết hợp đồng trong thương mại điện tử hay thanh toán trực tuyến. Do vậy, để tránh tạo khoảng trống pháp lý, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định này theo hướng những nội dung đã được quy định tại pháp luật chuyên ngành thì áp dụng theo pháp luật chuyên ngành, còn lại điều chỉnh theo Nghị định này.

  1. Hoạt động thương mại điện tử của thương nhân trung gian thương mại

Điều 1.5 Dự thảo (sửa đổi Điều 24.2 Nghị định 52/2013/NĐ-CP) quy định các thương nhân thiết lập website thương mại điện tử để tiến hành hoạt động trung gian thương mại cũng được coi là thương nhân cung cấp dịch vụ thương mại điện tử. Tuy nhiên, quy định này cần được xem xét ở các điểm sau:

Thứ nhất, cách quy định như vậy còn tương đối chung chung, dẫn đến nguy cơ trùng lặp với các quy định của Nghị định 52 hiện hành, chẳng hạn:

  • Trùng lặp với nội hàm của sàn thương mại điện tử, chẳng hạn các website cung cấp dịch vụ môi giới bất động sản, trong đó cho phép người dùng đăng tải lên website đó hàng hóa (nhà, đất…) đã được coi là sàn thương mại điện tử theo định nghĩa hiện hành tại Nghị định 52, và do đó đã được điều chỉnh như một sàn thương mại điện tử;
  • Trùng lặp với nội hàm của website thương mại điện tử bán hàng, chẳng hạn các đơn vị cung cấp dịch vụ đại lý vé máy bay chỉ cung cấp các dịch vụ liên quan đến vé máy bay (mua hộ, đổi tên hộ…) được thực hiện bởi chính đơn vị đó chứ không phải do các hãng hàng không tiến hành thực hiện trên nền tảng của các đơn vị này, và do đó chỉ nên được coi là người sở hữu website thương mại điện tử theo Điều 24.1 Nghị định 52;

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng liệt kê rõ các hoạt động thương mại cần điều chỉnh.

Thứ hai, Dự thảo chưa làm rõ các website thương mại điện tử của thương nhân hoạt động trung gian thương mại này sẽ thuộc hình thức tổ chức nào theo Điều 25.2 Nghị định 52, và từ đó sẽ chịu sự điều chỉnh của các quy định nào trong Nghị định này. Do vây, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định làm rõ vấn đề này.

  1. Thông tin về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện

Điều 1.8 Dự thảo (sửa đổi Điều 30 Nghị định 52/2013/NĐ-CP) quy định về công bố thông tin với các hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện hoặc thuộc ngành nghề đầu tư kinh doanh. Không rõ Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện mà cơ quan soạn thảo đề cập có phải là Phụ lục III Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn Luật Thương mại? Nếu đúng như vậy, các quy định tại Nghị định này hiện đã khá cũ và không được sửa đổi, cập nhật theo sự thay đổi về điều kiện kinh doanh của các văn bản pháp luật khác.

Hiện nay, việc kiểm soát chất lượng hàng hóa, dịch vụ được thực hiện dưới hai hình thức: (i) kiểm soát điều kiện của chủ thể kinh doanh và (ii) kiểm soát chất lượng của sản phẩm (chủ yếu là hàng hóa) qua các quy chuẩn, tiêu chuẩn chất lượng. Với nhóm (i), Danh mục này được quy định tại Phụ lục của Luật Đầu tư, và được quy định chi tiết bởi các Nghị định chuyên ngành. Với nhóm (ii), những nội dung này được quy định rải rác ở rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật (thường ở các thông tư ban hành quy chuẩn chất lượng) và thường xuyên thay đổi. Khi đó, có hai vấn đề cần được xem xét như sau:

Thứ nhất, cách quy định theo hướng bắt buộc tất cả các thương nhân kinh doanh thương mại điện tử cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện sẽ tạo ra gánh nặng tuân thủ rất lớn cho các thương nhân buôn bán. Nhiều thương nhân chỉ thực hiện kinh doanh (tức nhập hàng về bán, từ người sản xuất hoặc đơn vị trung gian), và do đó gặp khó khăn trong việc thu thập các tài liệu này, đặc biệt là với các doanh nghiệp nhỏ, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh. Ngoài ra, quá trình giao dịch, về bản chất, là việc thuận mua vừa bán, do vậy điều quan trọng hơn cả là người tiêu dùng có thể tự cân nhắc và lựa chọn khi ra quyết định mua hàng dựa trên các thông tin được cung cấp.

Việc này có thể được thực hiện thông qua việc: (i) cho phép thương nhân bán hàng được lựa chọn đăng tải hoặc không đăng tải các giấy tờ lên; (ii) yêu cầu các sàn thương mại điện tử hoặc mạng xã hội phải thực hiện các giải pháp (dán nhãn, cảnh báo) nhằm giúp người mua phân biệt được hàng hóa, dịch vụ đó phải có giấy tờ, hồ sơ chứng minh về chất lượng, và việc người bán có hay không có các giấy tờ, tài liệu này.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định theo hướng trên.

Thứ hai, như đã phân tích ở trên, các quy định về hàng hóa, dịch vụ có điều kiện rất đa dạng, nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau và thường xuyên thay đổi. Theo phản ánh của doanh nghiệp, việc này sẽ có thể khiến các sàn thương mại điện tử hoặc mạng xã hội gặp khó khăn và tăng nặng chi phí tuân thủ trong việc tập hợp, hệ thống và cập nhật những mặt hàng nào cần hợp chuẩn, hợp quy và cụ thể các mẫu giấy tờ này sẽ thế nào. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước quản lý thương mại thường xuyên cập nhật danh sách các loại hàng hóa, dịch vụ cần đáp ứng yêu cầu chất lượng và hồ sơ chứng minh, cung cấp để các doanh nghiệp thuận tiện trong việc đáp ứng.

  1. Trách nhiệm của sàn thương mại điện tử

Điều 1.12 Dự thảo (sửa đổi Điều 36 Nghị định 52/2013/NĐ-CP) sửa đổi, bổ sung một số trách nhiệm của sàn thương mại điện tử. Một số quy định cần được xem xét, cụ thể như sau:

Thứ nhất, một số quy định về trách nhiệm của sàn thương mại điện tử chưa rõ ràng, cụ thể:

  • Trách nhiệm phối hợp với các chủ thể, cơ quan về sở hữu trí tuệ trong việc gỡ bỏ các sản phẩm xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ;
  • Trách nhiệm tham gia giải quyết khiếu nai, phản ánh và các tranh chấp từ doanh nghiệp và người tiêu dùng;
  • Trách nhiệm cung cấp thông tin về đối tương có hành vi vi phạm pháp luật;

Không rõ doanh nghiệp thực hiện các hành vi như thế nào được coi là đã thực hiện trách nhiệm “phối hợp”, “tham gia giải quyết” hay doanh nghiệp cần cung cấp các thông tin như thế nào? Cách quy định không rõ ràng như vậy có thể gây khó khăn cho các sàn thương mại điện tử trong việc thực hiện các nghĩa vụ của mình, đặc biệt khi Điều 1.12.b Dự thảo quy định sàn phải liên đới chịu trách nhiệm trong trường hợp không thực hiện các nghĩa vụ này.

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định làm rõ các quy định trên.

Thứ hai, Dự thảo quy định sàn phải có trách nhiệm cung cấp công cụ hỗ trợ cơ quan quản lý nhà nước tra cứu, định danh người bán. Như đã đề cập tại Công văn 1199/PTM-PC ngày 28/07/2020, quy định này chưa phù hợp do việc thiết kế và vận hành một công cụ riêng chỉ để phục vụ mục đích tra cứu thông tin sẽ gây ra những gánh nặng rất lớn về chi phí và nhân lực cho doanh nghiệp. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này. Thay vào đó, cơ quan nhà nước có thể yêu cầu doanh nghiệp cung cấp các thông tin cần thiết để phục vụ công tác quản lý của mình.

  1. Phân loại quản lý thương mại điện tử với mạng xã hội

Điều 1.11 Dự thảo (sửa đổi Điều 35.2 Nghị định 52/2013/NĐ-CP) bổ sung quy định quản lý các mạng xã hội có một số đặc tính nhất định. Tuy nhiên, quy định này là quá rộng và không rõ ràng, chẳng hạn:

  • Với đặc tính “có chuyên mục mua bán” (mà không kèm theo các chức năng khác): quy định này bao gồm cả các mục rao vặt trên các diễn đàn sở thích.
  • Với đặc tính cho phép người tham gia mở các gian hàng để trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ: quy định này bao gồm cả các mạng xã hội thông thường, vì chức năng mở trang cá nhân hoàn toàn có thể được sử dụng như một gian hàng để trưng bày, giới thiệu hàng hoá, dịch vụ.

Khi đó, kể cả những diễn đàn hay mạng xã hội hoàn toàn không có chức năng riêng hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử cũng sẽ thuộc diện điều chỉnh của Nghị định. Việc yêu cầu các diễn đàn, mạng xã hội này phải xin phép như một sàn thương mại điện tử và phải có các nghĩa vụ, trách nhiệm tương ứng là không phù hợp.

Có thể thấy rằng, điểm khác biệt giữa mạng xã hội có hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử và mạng xã hội không có là chức năng phân loại trường dữ liệu:

  • Với các mạng xã hội không hỗ trợ thương mại điện tử, người dùng đơn giản là sử dụng các chức năng có sẵn (post, thread, comment), và các trường dữ liệu có sẵn (text) để thực hiện hoạt động thương mại điện tử;
  • Với các mạng xã hội có hỗ trợ thương mại điện tử, thường xuất hiện các trường thông tin đặc trưng hỗ trợ hoạt động thương mại (chẳng hạn như trường thông tin về giá cả); hoặc các chức năng đặc trưng (như so sánh, giới thiệu mặt hàng tương tự, đánh giá, cho điểm sản phẩm);

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo sửa đổi quy định trên theo hướng chỉ quản lý các quy định về thương mại điện tử với các mạng xã hội có thể hiện các trường dữ liệu đặc trưng hoặc có chức năng cho việc bán hàng như đã nêu ở trên.

  1. Phương thức quản lý với mạng xã hội

Điều 1.11 Dự thảo (sửa đổi Điều 35.2 Nghị định 52/2013/NĐ-CP) dự tính quản lý các mạng xã hội có hoạt động thương mại điện tử như quản lý một sàn thương mại điện tử. Như vậy, các mạng xã hội sẽ phải thực hiện: (i) thủ tục đăng ký thiết lập website thương mại điện tử; (ii) thu thập thông tin người bán. Các nghĩa vụ này là không thực sự cần thiết và tạo gánh nặng tuân thủ lớn cho các doanh nghiệp. Vấn đề này đã được trình bày cụ thể tại Công văn 1199/PTM-PC ngày 28/07/2020. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định những biện pháp quản lý đặc thù với các mạng xã hội không có chức năng đặt hàng trực tuyến, cụ thể:

    • Không áp dụng biện pháp cấp phép;
    • Chỉ yêu cầu trách nhiệm thu thập thông tin về tên tuổi, số điện thoại của người bán trên mạng xã hội và xác thực qua số điện thoại.
  1. Thương nhân, tổ chức nước ngoài bán hàng trên sàn thương mại điện tử Việt Nam

Điều 1.17 Dự thảo quy định các thương nhân nước ngoài bán hàng trên sàn thương mại điện tử Việt Nam phải chỉ định đại lý thương mại. Quy định này cần xem xét các nội dung sau:

  • Thời điểm các thương nhân nước ngoài phải chỉ định thương mại là thời điểm nào? Với các thương nhân đã kinh doanh trên sàn thì thời hạn hoàn thành nghĩa vụ này là thời điểm này?;
  • Xử lý như thế nào trong trường hợp thương nhân nước ngoài không chỉ định đại lý thương mại tại Việt Nam?;
  • Việc chỉ định đại lý có phải do thương nhân nước ngoài tự khai, tự chịu trách nhiệm hay có trách nhiệm của các bên khác nữa? Do có thể xảy ra tình trạng các thương nhân này chỉ định đại lý không đúng (không tồn tại hoặc tồn tại nhưng không có quan hệ đại lý);

Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định làm rõ những vấn đề trên.

  1. Cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại điện tử

Một trong những lo ngại của cơ quan soạn thảo là việc các nhà đầu tư nước ngoài nắm quyền quản lý các sàn thương mại điện tử sẽ tạo điều kiện cho người bán nước ngoài, hàng hóa nước ngoài vào thị trường Việt Nam, từ đó ảnh hưởng đến hàng hóa và nhà sản xuất nội địa[1]. Vấn đề này có thể được giải quyết bằng các quy định của pháp luật cạnh tranh, cụ thể Điều 27.1 Luật Cạnh tranh 2018 quy định cấm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác.[2] Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ trong môi trường điện tử, các hành vi này thường được thực hiện cực kỳ tinh vi và rất khó phát hiện, chứng minh. Do vậy, để đảm bảo khả năng thực thi, đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bổ sung một số quy định sau:

  • Thành lập đội giám sát ngay trong Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số về vấn đề cạnh tranh trong thương mại điện tử, tập trung vào mảng cạnh tranh ngành dọc (giữa thương nhân bán hàng và chủ sàn);
  • Yêu cầu các đơn vị có vị thế thống lĩnh, độc quyền phải báo cáo các nội dung có thể ảnh hưởng đến cạnh tranh (ví dụ: thuật toán hiển thị, chính sách áp dụng với thương nhân bán hàng…);
  • Tiếp nhận phản ánh về các sự việc liên quan đến cạnh tranh qua Cổng thông tin của Cục.
  1. Dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử

Điều 63 Nghị định 52/2013/NĐ-CP quy định về điều kiện kinh doanh với dịch vụ chứng thực hợp đồng điện tử. Tuy nhiên, Luật Đầu tư 2014 cũng như Luật đầu tư 2020 đều không quy định đây là ngành, nghề kinh doanh có điều kiện. Do vậy, đề nghị cơ quan soạn thảo làm rõ cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn của quy định này. Nếu không giải trình được, đề nghị cơ quan soạn thảo bỏ quy định này.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về Dự thảo Nghị định sửa đổi một số điều của Nghị định 52/2013/NĐ-CP về thương mại điện tử. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện Dự thảo này.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan./.

[1] Chú thích số 7, Tờ trình Dự thảo

[2] Điều 27 Luật Cạnh tranh 2018 quy định: Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm

  1. Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi sau đây:

d) Áp dụng điều kiện thương mại khác nhau trong các giao dịch tương tự dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;

đ) Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác trong ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc yêu cầu doanh nghiệp khác, khách hàng chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến ngăn cản doanh nghiệp khác tham gia, mở rộng thị trường hoặc loại bỏ doanh nghiệp khác;