VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử

Thứ Ba 14:58 29-06-2021

Kính gửi: Trung tâm Chứng thực điện tử quốc gia

  Bộ Thông tin và Truyền thông

Trả lời Công văn số 1165/BTTTT-NEAC của Bộ Thông tin và Truyền thông đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến sơ bộ ban đầu như sau:

1. Về mức độ bảo đảm danh tính số (Điều 4)

  • Phương tiện xác thực

Theo quy định tại Điều 4 Dự thảo thì chỉ có mức độ 4 thì mới yêu cầu bắt buộc về sử dụng phương tiện xác thực quy định tại khoản 6 Điều 10, còn các mức độ từ 1 đến 3 không thấy quy định về phương tiện xác thực là gì? Điều này có thể đưa đến cách hiểu ở các mức độ này thì phương tiện xác thực nào sẽ do chủ thể danh tính số và đơn vị cung cấp dịch vụ tự xác định không? Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ vấn đề này để tạo cách hiểu thống nhất khi thực hiện.

  • Yếu tố xác thực

Quy định tại Điều 4 cho phép dựa trên một hoặc tối thiểu hai loại yếu tố xác thực (tùy theo mức độ đảm bảo của danh tính số), nhưng không bắt buộc phải có yếu tố “đặc điểm tự nhiên”. Do đó, việc xác thực điện tử có thể không bao gồm yếu tố “đặc điểm tự nhiên”. Tuy nhiên, xét về tính phân biệt giữa các cá nhân này với cá nhân khác thì yếu tố sinh trắc học là yếu tố mang tính phân biệt cao trong các yếu tố xác thực quy định tại Điều 9 Dự thảo.

Do đó, một số doanh nghiệp đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định tại Điều 4 theo hướng đối với danh tính số từ mức độ 3 trở lên thì một trong các yếu tổ xác thực phải bao gồm “đặc điểm tự nhiên của chủ thể danh tính số” để đảm bảo tính phân biệt co, khó làm giả và gây nhầm lẫn.

2. Về tạm dừng, thu hồi danh tính số (Điều 16)

Theo quy định tại điểm c khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 16 Dự thảo thì danh tính số sẽ bị tạm dừng, thu hồi trong trường hợp “theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Việc tạm dừng/thu hồi danh tính số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chủ thể danh tính số và tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử, do đó các trường hợp tạm dừng/thu hồi cần được thiết kế cụ thể, rõ ràng. Quy định trên là chưa rõ trường hợp nào cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ yêu cầu tạm dừng/thu hồi danh tính số. Quy định thiếu rõ ràng sẽ tạo ra nguy cơ lạm dụng quy định và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể danh tính số.

Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ yêu cầu thu hồi/tạm dừng danh tính số quy định tại điểm c khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 16 Dự thảo.

Điểm b khoản 2 Điều 16 Dự thảo quy định “Đối với danh inh số được bảo đảm ở Mức 3, khi chủ thể danh tính số đã chết hoặc mất tích theo tuyên bố của tòa án hoặc khi tổ chức do chủ thể danh tính số là đại diện theo pháp luật giải thể hoặc phá sản”. Đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định “được đảm bảo ở Mức 3” vì mỗi danh tính số đều gắn với một cá nhân cụ thể và không phụ thuộc độ bảo đảm ở mức nào. Do đó, khi chủ thể danh tính số đã chết hoặc mất tích, tất cả các Danh tính số gắn với chủ thể đó đều cần được thu hồi. Đề nghị Ban soạn thảo xem xét chỉ thu hồi danh tính số là đại diện theo pháp luật của tổ chức bị giải thể hoặc phá sản khi danh tính số đó là các thông tin, dữ liệu của cá nhân thì chủ thể vẫn có quyền tiếp tục sử dụng.

3. Điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử (Điều 18)

Theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Dự thảo thì doanh nghiệp phải ký quỹ không kỳ hạn tại ngân hàng thương mại không dưới 20 tỷ. So sánh với lĩnh vực có tính chất tương tự là cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số thì số tiền doanh nghiệp cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử phải ký quỹ là khá lớn (gấp 04 lần). Yêu cầu về tài chính của doanh nghiệp là một trong những rào cản khiến các doanh nghiệp không có tiềm lực tài chính tham gia vào thị trường này, vì vậy cần phải thận trọng khi thiết kế điều kiện kinh doanh yêu cầu phải đáp ứng tối thiểu về một mức tài chính nhất định.

Khoản tiền ký quỹ này nhằm “để giải quyết các rủi ro và các khoản đền bù có thể xảy ra trong quá trình cung cấp dịch vụ do lỗi của Tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử và thanh toán chi phí tiếp nhận và duy trì cơ sở dữ liệu trong trường hợp bị thu hồi giấy chứng nhận”. Như vậy, mục tiêu của quy định này nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng và duy trì định danh và xác thực điện tử của khách hàng trong trường hợp công ty không còn tồn tại. Dự thảo không yêu cầu cá nhân chỉ được sử dụng dịch vụ của một công ty cung cấp dịch vụ định danh điện tử, vì vậy trong trường hợp công ty đã cung cấp dịch vụ không còn tồn tại thì các cá nhân có thể sử dụng dịch vụ của công ty khác trên thị trường, do đó việc định danh điện tử và xác thực điện tử của cá nhân đó vẫn sẽ thực hiện được. Còn thiệt hại do công ty cung cấp dịch vụ gây ra cho khách hàng thì có thể có cơ chế giải quyết tranh chấp của pháp luật dân sự điều chỉnh. Từ những phân tích này, có thể thấy quy định về điều kiện tài chính tại Dự thảo dường như chưa phù hợp với tính chất của quy định về điều kiện kinh doanh quy định tại Điều 7 Luật Đầu tư 2020.

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bỏ quy định tại khoản 3 Điều 18 Dự thảo, trong trường hợp có lý do thuyết phục để giữ quy định này đề nghị giảm số tiền ký quỹ xuống, ít nhất là bằng mức ký quỹ của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ chữ ký số (05 tỷ đồng).

4. Hồ sơ, trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử (Điều 19)

4.1. Về hồ sơ (khoản 1)

– Đề nghị Ban soạn thảo bỏ yêu cầu phải có “Bản sao chứng thực giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc bản sao chứng thực giấy chứng nhận đầu tư hoặc bản sao chứng thực quyết định thành lập tổ chức” vì đây là các thông tin cơ quan cấp phép có thể tìm hiểu tại cơ quan quản lý nhà nước khác. Mặt khác, theo xu hướng cắt giảm các chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp theo Nghị quyết 68/NQ-CP của Chính phủ thì các loại tài liệu này không còn được yêu cầu trong các hồ sơ xin cấp phép.

– Về “tài liệu kỹ thuật và quy trình quản lý cung cấp dịch vụ bao gồm tài liệu chứng minh đáp ứng các quy định tại khoản 4 Điều 18 Nghị định này”. Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc quy định tài liệu này theo hướng là bản thuyết minh về các kỹ thuật và quy trình quản lý cung cấp dịch vụ mà không cần phải có tài liệu chứng minh. Sau khi doanh nghiệp đi vào hoạt động, cơ quan nhà nước sẽ kiểm tra về tính phù hợp của kỹ thuật và quy trình quản lý cung cấp dịch vụ so với bản mô tả và theo quy định.

4.2. Về trình tự thủ tục (khoản 2)

Theo quy định tại Dự thảo thì thời hạn để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, quyết định cấp giấy chứng nhận đáp ứng đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử là 50 ngày. Trong quá trình xem xét hồ sơ, cơ quan cấp phép sẽ lấy ý kiến các cơ quan có liên quan và các cơ quan này có thời hạn 10 ngày để trả lời. Thời hạn trả lời không tính vào thời hạn xử lý hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận.

Như vậy, thời hạn để xem xét, quyết định cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử là hơn 60 ngày. Đây là thời hạn quá dài để xem xét cấp giấy phép kinh doanh, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc rút ngắn thời hạn cấp phép xuống, có thể là 20 ngày làm việc.

5. Thay đổi nội dung giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử (Điều 20)

Theo quy định tại khoản 3 Điều 20 Dự thảo thì trong trình tự, thủ tục thay đổi nội dung giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử theo hướng cơ quan cấp phép sẽ kiểm tra thực tế doanh nghiệp trong quá trình thẩm định hồ sơ. Quy định này cần được cân nhắc ở điểm sau:

Trong thủ tục cấp mới, cơ quan cấp phép chỉ thẩm định và cấp phép dựa trên hồ sơ mà không cần phải kiểm tra thực tế, do đó thủ tục thay đổi nội dung giấy chứng nhận cơ quan quản lý không cần thiết phải thiết kế theo hướng phải kiểm tra thực tế. Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy trình thẩm định và cấp giấy phép sửa đổi theo hướng chỉ cần thẩm định dựa trên hồ sơ doanh nghiệp cung cấp.

6. Cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử (Điều 21)

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 Dự thảo, 15 ngày làm việc là thời hạn cơ quan cấp phép sẽ xem xét để cấp lại giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử trong trường hợp bị mất hoặc bị hư hỏng.

Đây là thời gian khá dài để giải quyết cho một thủ tục rất đơn giản về hồ sơ (chỉ có đơn đề nghị theo mẫu), đề nghị Ban soạn thảo rút ngắn thời hạn xuống còn 03 ngày làm việc, tương ứng với các thủ tục cấp lại trong trường hợp bị mất hoặc bị hư hỏng của các lĩnh vực khác.

7. Thu hồi tạm thời giấy chứng nhận đủ điều kiện cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử (Điều 22)

Khoản 4 Điều 22 Dự thảo quy định ”trong thời gian bị thu hồi tạm thời giấy chứng nhận, nếu Tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử khắc phục được lý do thu hồi tạm thời, Bộ Thông tin và Truyền thông ra quyết định bãi bỏ quyết định thu hồi tạm thời giấy chứng nhận”.

Dự thảo không quy định về trình tự, thủ tục cơ quan có thẩm quyền ra quyết định bãi bỏ quyết định thu hồi tạm thời giấy chứng nhận (doanh nghiệp có phải gửi tài liệu chứng minh đã khắc phục được lý do thu hồi tạm thời không? Cơ quan cấp phép có phải kiểm tra thực tế để xác nhận việc hoàn thành khắc phục không? Thời gian cho các giai đoạn này thực hiện như thế nào?). Để đảm bảo thuận lợi trong quá trình triển khai trên thực tế, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về trình tự thủ tục này.

 

8. Trách nhiệm của Tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử (Điều 26)

  • Về vị trí thống lĩnh thị trường

Điểm b khoản 2 Điều 26 Dự thảo quy định ”trường hợp tổ chức có vị trí thống lĩnh thị trường theo quy định của Luật Cạnh tranh thì phải đáp ứng yêu cầu như tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử từ mức độ 3 trở lên”. Không rõ mối liên hệ giữa doanh nghiệp ở vị trí thống lĩnh thị trường và mức độ cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử.

Theo quy định của pháp luật cạnh tranh, vị trí thống lĩnh thị trường có thể tác động đến thị trường cạnh tranh và phải chịu một số biện pháp quản lý đặc thù để giảm thiểu và/hoặc kiểm soát mức độ tác động của doanh nghiệp ở vị trí này tới thị trường. Trong khi đó, các yêu cầu để cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử từ mức độ 3 là các điều kiện kinh doanh áp dụng cho doanh nghiệp cung cấp trong lĩnh vực này để đảm bảo hoạt động cung cấp dịch vụ này không tác động đến các lợi ích công cộng (quyền lợi của khách hàng, dưới phương diện là đảm bảo chất lượng, duy trì trạng thái định danh và xác thực điện tử của khách hàng; ảnh hưởng tới việc thực hiện các thủ tục hành chính của khách hàng, …). Hai biện pháp quản lý này là khác nhau, do đó quy định tại điểm b khoản 2 Điều 26 Dự thảo dường như chưa phù hợp, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này.

  • Trách nhiệm báo cáo

Điểm d khoản 3 Điều 26 Dự thảo quy định tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử có sử dụng danh tính số được bảo đảm từ Mức 3 phải ”báo cáo định kỳ và đột xuất theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông và yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”.

Quy định này là không rõ về tần suất báo cáo (định kỳ tháng, quý, 06 tháng hay năm) và trường hợp phải báo cáo (không rõ trường hợp nào thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ yêu cầu phải báo cáo, báo cáo đột xuất trong trường hợp nào). Mặt khác, theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 thì thông tư không được quy định về thủ tục hành chính trừ trường hợp luật, pháp lệnh giao, quy định này tại Dự thảo là chưa phù hợp.

Tóm lại, để đảm bảo tính minh bạch và hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định tại điểm d khoản 3 Điều 26 Dự thảo theo hướng: quy định rõ tần suất báo cáo định kỳ (báo cáo định kỳ hàng năm hoặc 06 tháng); quy định rõ các trường hợp cơ quan nhà nước yêu cầu báo cáo trong trường hợp đột xuất để hạn chế tình trạng áp dụng tùy tiện quy định này, tạo gánh nặng về mặt thủ tục cho doanh nghiệp.

9. Trách nhiệm của cơ quan tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực điện tử (Điều 28)

Điều 28 Dự thảo quy định ” Cơ quan, tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực điện tử cho người sử dụng dịch vụ trên môi trường mạng để thay thế cho các giao dịch yêu cầu căn cước công dân, inh việc phải tuân thủ khoản 1 Điều này, cần phải tuân thủ các quy định tại Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17 của Nghị định này và các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật định danh và xác thực điện tử.” Như vậy, quy định này chưa rõ ở điểm: Cơ quan, tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực điện tử cho người sử dụng dịch vụ do cơ quan, tổ chức đó cung cấp trên môi trường mạng hay là cho người sử dụng dịch vụ do cơ quan, tổ chức khác cung cấp?

Nếu cơ quan, tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực điện tử cho người sử dụng dịch vụ của chính công ty, cơ quan đó thì việc yêu cầu việc định danh và xác thực điện tử phải tuân theo các quy định tại Nghị định này dường như chưa thật hợp lý. Bởi vì, việc các cơ quan, tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực điện tử để phục vụ cho các giao dịch mà họ ký kết với khách hàng, do đó cơ quan, tổ chức sẽ buộc phải thực hiện các biện pháp để đảm bảo xác định chính xác khách hàng của mình. Đây cũng là căn cứ để bảo vệ quyền lợi của các cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ nếu có tranh chấp xảy ra. Vì vậy, không cần thiết phải yêu cầu việc xác định danh tính số của người sử dụng dịch vụ trong các trường hợp cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ tự thực hiện định danh.

Nếu cơ quan, tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực cho người sử dụng dịch vụ của tổ chức cung cấp dịch vụ khác. Quy định theo hướng này là chưa hợp lý và tạo ra sự bất bình đẳng trong quy định, khi cùng cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử nhưng có chủ thể lại phải cấp giấy phép có chủ thể lại không.

Để đảm bảo tính minh bạch và hợp lý, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi quy định trên theo hướng, trong trường hợp cơ quan, tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực điện tử cho người sử dụng dịch vụ do chính cơ quan, tổ chức đó cung cấp trên môi trường mạng thì khuyến khích áp dụng các quy định tại Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17 của Nghị định này và các quy định của pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật định danh và xác thực điện tử.

Đồng thời xác định rõ phạm vi điều chỉnh của Nghị định này không bao gồm các trường hợp cơ quan, tổ chức tự thực hiện định danh và xác thực điện tử đối với người sử dụng dịch vụ do chính các cơ quan, tổ chức đó cung cấp.

10. Một số góp ý khác

  • Giải thích từ ngữ (Điều 2)

Khoản 8 Điều 2 Dự thảo quy định ”Bên sử dụng danh tính số là cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng có yêu cầu sử dụng danh tính số”.

Theo giải trình của cơ quan soạn thảo tại Tờ trình thì mục đích của các quy định tại Dự thảo là nhằm ”phổ cập danh tính số, tạo điều kiện thuận lợi để cá nhân, tổ chức tham gia các giao dịch trên môi trường mạng an toàn, tiện lợi, thúc đẩy phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số”. Với mục tiêu này thì phạm vi của ”bên sử dụng danh tính số” phải được mở rộng ra cho cả cá nhân. Bởi vì, thực hiện các giao dịch trên môi trường mạng không chỉ được thực hiện giữa các tổ chức – tổ chức, tổ chức – cá nhân mà còn giữa cá nhân – cá nhân; các giao dịch trên môi trường màng không chỉ trong lĩnh vực dịch vụ mà còn là hàng hóa.

Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi khái niệm trên theo hướng bao quát hơn, ví dụ ”bên sử dụng danh tính số” là cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp dịch vụ, hàng hóa trên môi trường mạng có yêu cầu sử dụng danh tính số.

  • Thành phần của danh tính số (Điều 3)

Khoản 2 Điều 3 Dự thảo quy định, dữ liệu số bao gồm tối thiểu một trong các thông tin sau: số định danh cá nhân hoặc số Chứng minh nhân dân; Họ, tên đệm và tên; Ngày, tháng, năm sinh; Giới tính; Quốc tịch; Số điện thoại di động; Thư điện tử.

”Số điện thoại di động, thư điện tử cá nhân” là các dữ liệu có thể thay đổi liên tục và khó để xác định chính xác một cá nhân. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo bỏ thông tin về số điện thoại di động; thư điện tử.

Khoản 1 Điều 3 Dự thảo quy định về khái niệm ”mã định danh” nhưng trong cả Dự thảo ngoài quy định tại khoản này không có điều khoản nào quy định về ”mã định danh”. Do đó không rõ mục tiêu của quy định này. Khi tham gia giao dịch trên môi trường mạng, cá nhân có danh tính số thì sẽ được hiển thị bằng mã định danh hay danh tính số hoặc bằng hình thức nào khác? Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ ràng hơn về vấn đề này.

  • Giá trị sử dụng của danh tính số (Điều 5)

Danh tính số sẽ xác thực chính xác danh tính của cá nhân trên môi trường mạng, đảm bảo độ tin cậy của các bên khi thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, một điểm không rõ là, khi cung cấp danh tính số để thực hiện các giao dịch thì có cần chữ ký số để thực hiện giao dịch đó nữa không? Nếu vẫn phải có chữ ký số thì giá trị của danh tính số trong trường hợp này sẽ không cần thiết, bởi vì bản thân chữ ký số và xác thực chữ ký số đã xác định chính xác danh tính của người/tổ chức ký chữ ký số.

Đề nghị Ban soạn thảo giải trình và làm rõ vấn đề trên.

  • Định danh điện tử (Điều 7)

Điểm c khoản 1 Điều 7 Dự thảo quy định ”Mức 3: Như mức 2 đồng thời đối chiếu dữ liệu số thông qua kiểm tra trực tiếp thẻ căn cước công dân hoặc kết nối điện tử với thẻ căn cước công dân hoặc kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư”.

Khái niệm “kết nối điện tử với thẻ căn cước công dân” được hiểu như thế nào. Hiện nay, căn cước công dân đã có gắn mã QR, theo đó các bên có thể truy xuất thông tin của công dân từ mã này (tên tuổi, ngày sinh, số căn cước công dân, địa chỉ thường trú). Liệu doanh nghiệp có sử dụng các thông tin khi đọc mã QR trên căn cước công dân của khách hàng đang giao dịch và được xem là thỏa mãn cấp độ 3 theo quy định tại Điều này hay không? Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ vấn đề này trong Dự thảo.

  • Cung cấp và sử dụng dịch vụ định danh và xác thực điện tử (Điều 11)

Khoản 1 Điều 11 Dự thảo quy định ”Việc cung cấp và sử dụng dịch vụ định danh và xác thực điện tử được thực hiện trên cơ sở hợp đồng giao kết giữa Tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử với cá nhân đăng ký và giữa Tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử với bên sử dụng danh tính số”. Quy định này vẫn chưa rõ việc dịch vụ cung cấp danh tính số cho bên sử dụng danh tính số được thực hiện thế nào, chỉ thực hiện việc xác thực các thông tin là đúng/sai hay bao gồm cả cung cấp các thông tin cá nhân? Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ.

  • Lưu trữ, cập nhật danh tính số (Điều 13)

Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ khái niệm ”giao dịch trọn vòng đời của danh tính số” được hiểu như thế nào? Khái niệm này liên quan đến trách nhiệm của bên cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử, vì vậy cần phải quy định rõ ràng để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện. Mặt khác, nếu phát sinh giao dịch trọn vòng đời, danh tính số phải được lưu trữ cùng với thông tin về giao dịch trọn vòng đời đó không? Trong trường hợp danh tính số bị tạm dừng, thu hồi thì thông tin về các giao dịch trọn vòng đời này có tiếp tục được lưu trữ hay không?

  • Trách nhiệm chủ thể danh tính số (Điều 25)

Đề nghị Ban soạn thảo bổ sung quy định giải quyết cho trường hợp danh tính số hoặc phương tiện xác thực đang bị mất kiểm soát và sử dụng trái phép thì các giao dịch trái phép đó được xử lý như thế nào? Hướng xử lý của trường hợp này là căn cứ để bổ sung trách nhiệm liên quan của tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và Bên sử dụng danh tính số.

  • Trách nhiệm của Bộ Công an (Điều 30)

Khoản 1 Điều 30 Dự thảo quy định, Bộ Công an có trách nhiệm hướng dẫn quy trình thực hiện, phê duyệt yêu cầu kết nối, trao đổi thông tin với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phục vụ việc kiểm tra thông tin cá nhân cho Tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử theo đúng quy định của pháp luật. Quy định này được hiểu, để kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, thì tổ chức cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử phải thực hiện thủ tục để được phê duyệt việc kết nối. Đây là một dạng của thủ tục hành chính, vì vậy cần được quy định tại văn bản cấp Nghị định trở lên theo quy định tại Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Một vấn đề nữa là, cung cấp dịch vụ định danh và xác thực điện tử là ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, theo quy định tại Dự thảo thì doanh nghiệp phải được cấp giấy phép mới được cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, ngay cả khi được cấp giấy phép, doanh nghiệp chưa chắc đã hoạt động được nếu không thực hiện thủ tục để xin phê duyệt kết nối, trao đổi thông tin với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Như vậy, để hoạt động được trong lĩnh vực này, doanh nghiệp gần như phải xin hai lần giấy phép, trong khi đó thủ tục để xin phê duyệt kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia lại không được quy định tại Dự thảo. Điều này sẽ khiến cho việc triển khai thực hiện Nghị định này gặp khó khăn trên thực tế.

Đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc vấn đề được nêu trên để thiết kế quy định theo hướng thuận lợi, minh bạch cho hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định về định danh và xác thực điện tử. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan./.