VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai

Thứ Sáu 16:47 31-05-2024

Kính gửi: Bộ Tài nguyên và Môi trường

Trả lời Công văn số 3495/VPCP-NN của Văn phòng Chính phủ về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến như sau:

  1. Thu hồi đất quốc phòng, an ninh quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật Đất đai

Điều 28 Dự thảo quy định về trình tự thủ tục thu hồi đất quốc phòng, an ninh để chuyển giao cho địa phương thực hiện dự án phát triển kinh tế – xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 84 Luật Đất đai 2024, trường hợp không thống nhất ý kiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đối với đất quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an đối với đất an ninh, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định. Điều 28 Dự thảo chưa quy định về trường hợp ý kiến chưa thống nhất thì thủ tục trình lên Thủ tướng Chính phủ xem xét như thế nào?

Đề nghị bổ sung thêm quy định về trường hợp này.

  1. Trình tự, thủ tục thu hồi đất do vi phạm pháp luật đất đai (Điều 35)

Đoạn 2 điểm b khoản 7 Điều 35 Dự thảo quy định “trường hợp nhà đầu tư mua lại tài sản gắn liền với đất của người có đất thu hồi thì được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật”. Quy định này đang chưa rõ, nhà đầu tư mua lại tài sản gắn liền với đất có phải đáp ứng điều kiện để được Nhà nước giao đất, cho thuê đất không? Đề nghị quy định rõ để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện trên thực tế.

  1. Xử lý tài sản gắn liền với đất trong trường hợp thu hồi đất tại các điểm a, d và đ khoản 1 và khoản 2 Điều 82 Luật Đất đai (Điều 38)

Điểm d khoản 2 Điều 38 Dự thảo quy định, khi hết thời hạn quy định mà nhà đầu tư không chuyển quyền sử dụng đất, bán tài sản của mình gắn liền với đất cho nhà đầu tư khác thì Nhà nước sẽ thu hồi đất, không bồi thường về đất, tài sản gắn liền với đất. Chi phí thu hồi đất, xử lý tài sản gắn liền với đất do ngân sách nhà nước bảo đảm “nhà đầu tư được lựa chọn để tiếp tục sử dụng đất có trách nhiệm nộp ngân sách nhà nước khoản chi phí này trước khi được Nhà nước giao đất, cho thuê đất”. Quy định này là chưa rõ, khoản chi phí mà nhà đầu tư nộp ngân sách này có được trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất mà nhà đầu tư phải đóng cho Nhà nước sau này không? Đề nghị bổ sung quy định để làm rõ vấn đề này theo hướng nhà đầu tư sẽ được trừ.

  1. Giao đất, cho thuê đất đối với các thửa đất nhỏ hẹp do Nhà nước quản lý (Điều 50)

Khoản 2 Điều 50 Dự thảo quy định về nguyên tắc giao đất, cho thuê đất đối với các thửa đất nhỏ hẹp. Điểm b khoản 2 Điều 50 Dự thảo quy định, “trường hợp thửa đất có từ hai người sử dụng đất liền kề trở lên có nhu cầu sử dụng thửa đất nhỏ hẹp thì căn cứ vào quy hoạch, điều kiện thực tế sử dụng đất của người sử dụng đất liền kề để cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giao đất quyết định”. Quy định này là chưa đủ rõ ràng về tiêu chí để xác định việc giao đất cho người sử dụng đất liền kề nào và có thể nảy sinh tình trạng tranh chấp trên thực tế. Đề nghị quy định rõ hơn về tiêu chí quyết định giao đất trong trường hợp có hai người sử dụng đất liền kề đều có nhu cầu sử dụng thửa đất nhỏ hẹp.

  1. Trình tự, thủ tục Giao đất đối với trường hợp miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và Trình tự, thủ tục Giao đất đối với trường hợp chỉ có một nhà đầu tư đáp ứng điều kiện mời quan tâm đối với dự án phải xác định số lượng nhà đầu tư quan tâm theo quy định của pháp luật về đấu thầu, pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực

Mục 3 Chương VI Dự thảo quy định các trường hợp giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất hướng dẫn quy định 124 Luật Đất đai 2024. Tuy nhiên, hướng dẫn này còn thiếu về nội dung giao đất, cho thuê đất đối với trường hợp miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất quy định tại khoản 1 Điều 124 Luật Đất đai và giao đất, cho thuê đất đối với nhà đầu tư đáp ứng điều kiện mời quan tâm theo quy định của pháp luật về đấu thầu, pháp luật quản lý ngành, lĩnh vực quy định tại khoản 5 Điều 124 Luật Đất đai 2024.

Để đảm bảo thuận lợi trong quá trình triển khai, đề nghị bổ sung các quy định trên.

  1. Công bố danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự án có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định (Điều 60)

Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu thầu về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất (phiên bản thẩm định ngày 28/5/2024) quy định về công bố dự án đầu tư có sử dụng đất để thực hiện đấu thầu lựa chọn nhà dầu tư. Theo quy định này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhà đầu tư sẽ dựa vào danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự án đầu tư có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định để đề nghị chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc đề xuất dự án không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư.

Khoản 1 Điều 60 Dự thảo quy định, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố danh mục các khu đất thực hiện đấu thầu dự án đầu tư có sử dụng đất được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định để “các nhà đầu tư quan tâm đề xuất dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư”. Quy định này là chưa thống nhất với quy định tại Dự thảo Nghị định về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất. Đề nghị bỏ quy định này, áp dụng quy định tại Dự thảo Nghị định về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất.

  1. Xử lý trường hợp hủy kết quả trúng thầu quy định tại khoản 8 Điều 126 Luật Đất đai mà nhà đầu tư trúng thầu đã ứng trước một phần kinh phí cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được phê duyệt (Điều 61)

Khoản 3 Điều 61 Dự thảo quy định, “trường hợp hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh có quy định về việc xử lý chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư mà đã tạm ứng thì giải quyết theo nội dung hợp đồng”. Đề nghị phối hợp với Ban soạn thảo của Dự thảo Nghị định về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất để quy định về vấn đề này, bởi vì Dự thảo Nghị định về lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất không quy định có tình huống hủy kết quả trúng thầu mà nhà đầu tư trúng thầu đã ứng trước một phần kinh phí cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được duyệt.

  1. Trình tự, thủ tục để tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư (Điều 63)

Khoản 4 Điều 63 Dự thảo quy định, nội dung của văn bản chấp thuận tổ chức kinh tế được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án phải nêu “quy mô, diện tích, vị trí, thời hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận”. Quy định này là chưa rõ ở các điểm:

          – “Quy mô” là quy mô của dự án hay là gì?

          – “Diện tích” được chấp thuận có phải dựa trên diện tích mà nhà đầu tư đề xuất hay không?

          – “Thời hạn phải hoàn thành việc thỏa thuận” là bao lâu? Trong văn bản đề nghị theo Mẫu số 07 không thấy nhà đầu tư phản ánh về thời hạn thỏa thuận. Nhà nước yêu cầu về thời hạn phải hoàn thành thỏa thuận dựa trên căn cứ gì, trong khi đây là giao dịch dân sự giữa các bên. Mặt khác, theo quy định tại Điều 64 Dự thảo, trong trường hợp nhà đầu tư không hoàn thành việc thỏa thuận trong thời hạn này, sẽ phải xin gia hạn, trường hợp hết thời hạn gia hạn mà chưa hoàn thành việc thỏa thuận thì nhà đầu tư phải thực hiện một số thủ tục liên quan đến dự án đầu tư. Như vậy, thời hạn này sẽ liên quan đến việc thực hiện các thủ tục tiếp theo của nhà đầu tư. Do đó, đề nghị xem xét lại quy định về thời hạn này.

  1. Giải quyết trường hợp nhà đầu tư không đạt thỏa thuận được với người sử dụng đất (Điều 64)

Theo quy định tại Điều 64 Dự thảo, trong trường hợp đã hết thời hạn gia hạn mà chưa hoàn thành việc thỏa thuận hoặc nhà đầu tư không có nhu cầu gia hạn thì sẽ xử lý theo các trường hợp:

– “Nhà đầu tư đề nghị điều chỉnh phạm vi dự án phù hợp với diện tích đã hoàn thành việc thỏa thuận với người sử dụng đất và dự án đủ điều kiện để được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép thực hiện dự án” (điểm a khoản 2)

Quy định này vừa chưa rõ vừa chưa hợp lý ở các điểm:

+ Chưa phù hợp với quy định của Luật Đất đai và Điều 63 Dự thảo:

Theo quy định tại khoản 3 Điều 127 Luật Đất đai, điều kiện sử dụng đất để thực hiện dự án phát triển kinh tế – xã hội thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất gồm: i) phù hợp với quy hoạch sử dụng đất cấp huyện đã được phê duyệt; ii) chủ đầu tư đáp ứng điều kiện về tài chính; không vi phạm quy định của pháp luật về đất đai hoặc vi phạm nhưng đã chấp hành xong quyết định, bản án đã có hiệu lực. Khoản 3 Điều 63 Dự thảo cũng quy định về nội dung thẩm định cho phép việc thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án, trong đó các nội dung cơ bản bám sát yêu cầu tại khoản 3 Điều 127 Luật Đất đai. Như vậy, điều kiện để được sử dụng đất thông qua cơ chế thỏa thuận không gắn đến việc xem xét, thẩm định dự án đầu tư mà nhà đầu tư dự kiến triển khai. Vì vậy, điểm a khoản 2 Điều 64 Dự thảo yêu cầu nhà đầu tư phải điều chỉnh phạm vi dự án phù hợp với diện tích đã hoàn thành thỏa thuận là chưa phù hợp với tinh thần của Luật Đất đai 2024.

Mặt khác, nếu tại thời điểm xem xét chấp thuận về việc thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án, cơ quan có thẩm quyền đã xem xét các điều kiện của dự án “có đủ điều kiện để được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư” là chưa hợp lý, vì sau khi được thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất, nhà đầu tư sẽ tiến hành thỏa thuận với người sử dụng đất, sau khi thỏa thuận xong với người sử dụng đất sẽ thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư (trong trường hợp dự án thuộc trường hợp chấp thuận chủ trương đầu tư). Tại thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ xem xét về dự án đầu tư, năng lực của chủ đầu tư để chấp thuận hoặc từ chối. Như vậy, cơ quan Nhà nước sẽ xem xét hai lần về cùng một nội dung đối với dự án của nhà đầu tư. Điều này là sự chồng lấn về thủ tục và khiến cho thủ tục triển khai dự án đầu tư thông qua cơ chế thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất trở nên phức tạp.

+ Quy định đang chưa đủ rõ ràng

Quy định đang chưa rõ “UBND cấp tỉnh cho phép thực hiện dự án” là một dạng giấy phép mới? Khác với văn bản chấp thuận về việc thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án? Quy định này, UBND cấp tỉnh chỉ xem xét và chấp thuận cho phép hay không cho phép nhà đầu tư nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chứ không phải là cho phép hay không cho phép thực hiện dự án đầu tư từ nhận quyền sử dụng đất. Đề nghị bỏ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 64 Dự thảo.

– Diện tích đã hoàn thành việc thỏa thuận không đáp ứng điều kiện để thực hiện dự án đầu tư thì việc thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất chấm dứt. Diện tích đất nhà đầu tư đã hoàn thành việc thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất được xử lý: i) trường hợp không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi, nhà đầu tư được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn còn lại hoặc được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác; ii) trường hợp thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất và thuộc trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất thì UBND cấp có thẩm quyền thu hồi đất để đấu giá, giao đất, cho thuê đất cho nhà đầu tư trúng đấu giá, đấu thầu, nhà đầu tư được bồi thường theo quy định; iii) trường hợp thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất bằng hình thức thuê đất thì hợp đồng thuê đất chấm dứt. Việc giải quyết quyền và nghĩa vụ giữa Nhà đầu tư và người sử dụng đất thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự.

Quy định này cần được xem xét ở các điểm sau:

+ “Việc thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất chấm dứt” là chưa phù hợp. Bởi vì, việc nhận quyền sử dụng đất giữa nhà đầu tư và người sử dụng đất là thỏa thuận dân sự. Việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép việc nhận chuyển nhượng không có nghĩa sự cho phép này là hiệu lực của hợp đồng. Mặt khác, điểm a khoản 3 Điều 64 Dự thảo quy định, “trường hợp thỏa thuận nhận quyền để thực hiện dự án không thuộc trường hợp Nhà nước thu hồi đất, Nhà đầu tư được tiếp tục sử dụng đất trong thời hạn còn lại hoặc được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác”, theo quy định này dù diện tích đã hoàn thành việc thỏa thuận không đáp ứng điều kiện để thực hiện dự án, nhưng nhà đầu tư vẫn có quyền tiếp tục sử dụng đất này, có nghĩa thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất vẫn còn hiệu lực, không chấm dứt.

Đề nghị xác định lại đây là “thỏa thuận nhận quyền sử dụng chấm dứt” hay là “văn bản chấp thuận về việc thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất để thực hiện dự án” chấm dứt?

+ Quy định  “Trường hợp thỏa thuận nhận quyền sử dụng đất bằng hình thức thuê đất thì hợp đồng thuê đất chấm dứt” là chưa hợp lý. Tại sao thỏa thuận nhận chuyển nhượng không bị chấm dứt trong khi hợp đồng thuê đất lại bị chấm dứt,  cả hai đều có chung tính chất là thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất? Nhà đầu tư có thể không sử dụng quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư mà thực hiện các hoạt động kinh doanh khác trên thửa đất thuê này, do đó quy định hợp đồng thuê đất chấm dứt là chưa hợp lý, chưa bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư. Đề nghị bỏ quy định này, tức là bỏ điểm c khoản 3 Điều 64.

  1. Đất xây dựng công trình ngầm (Điều 98)

– Điều 98 Dự thảo hướng dẫn việc sử dụng đất để xây dựng công trình ngầm là phải có “dự án đầu tư, hạng mục đầu tư được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của pháp luật về xây dựng, pháp luật về quy hoạch đô thị, pháp luật về kiến trúc”. Tuy nhiên, thuật ngữ “hạng mục đầu tư” không được quy định tại Luật Đất đai, Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư… Thuật ngữ đúng là  “hạng mục của dự án đầu tư”. Do đó, đề nghị sửa lại cho đúng với thuật ngữ được quy định của Luật Đất đai 2024 và các luật khác để tránh phát sinh ra thuật ngữ mới, thủ tục hành chính mới.

– Dự thảo Nghị định chưa có quy định cụ thể đối với việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với đất xây dựng công trình ngầm được thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 216 Luật Đất đai 2024. Các quy định liên quan đến cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất đối với đất được quy định tại các Điều 45, 46 (hướng dẫn Điều 116 Luật Đất đai 2024). Trường hợp giao đất, cho thuê đất để xây dựng công trình ngầm được thực hiện theo Điều 51 của Dự thảo cũng chưa quy định cụ thể đối với việc cấp giấy chứng nhận. Việc cấp giấy chứng nhận khá quan trọng đối với nhiều chủ đầu tư cần có giấy tờ xác nhận quyền tài sản cho các hoạt động khác nhau (như huy động tài chính…). Đề nghị quy định chi tiết hơn nội dung này theo đúng yêu cầu của Khoản 7 Điều 216 Luật Đất đai 2024.

  1. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai (Điều 105)

Điều 105 Dự thảo quy định về thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai, tuy nhiên các bước trong trình tự, thủ tục đang chưa rõ về thời hạn thực hiện, ví dụ: không rõ bao nhiêu ngày kể từ ngày thụ lý đơn thì UBND cấp xã sẽ tiến hành thẩm tra, xác minh; Hội đồng hòa giải tranh chấp thành lập lúc nào và cuộc họp hòa giải tổ chức vào thời điểm nào? Việc thiếu rõ ràng về thời hạn của các bước sẽ khiến cho thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai bị kéo dài và có thể trở nên thiếu hiệu quả. Trên thực tế, có trường hợp do mâu thuẫn nên một trong các bên nộp đơn giải quyết tranh chấp lên UBND cấp xã. UBND cấp xã không giải quyết hoặc giải quyết kéo dài, điều này khiến cho đất thuộc trường hợp có tranh chấp. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người sử dụng đất, do các thủ tục liên quan đến đất đai có yêu cầu đất không có tranh chấp.

Đề nghị quy định rõ về thời hạn giải quyết hòa giải quy định tại Điều 105.

  1. Quy định chuyển tiếp

– Chuyển tiếp cho trường hợp dự án lấn biển đã được UBND cấp tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư

Theo quy định tại khoản 7 Điều 260 Luật đất đai 2024, trường hợp dự án có hoạt động lấn biển đã được Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ quyết định phê duyệt dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư công, quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư hoặc quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời chấp thuận nhà đầu tư theo đúng quy định của pháp luật về đầu tư trước ngày Điều 190 của Luật này có hiệu lực thi hành thì chủ đầu tư được giao đất, cho thuê đất không đấu giá quyền sử dụng đất, không đấu thầu dự án có sử dụng đất để tiếp tục được thực hiện theo dự án đầu tư đã được phê duyệt.

Quy định trên đang chưa rõ các dự án lấn biển đã được UBND cấp tỉnh quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư có được chuyển tiếp để giao đất, cho thuê đất không qua đấu giá, đấu thầu hay không. Để phù hợp với tinh thần chuyển tiếp tại Luật Đất đai 2024 và thực tế, đề nghị bổ sung trường hợp dự án có hoạt động lấn biển đã được UBND cấp tỉnh quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đầu tư thì được chuyển tiếp để giao đất, cho thuê đất không qua đấu giá, đấu thầu.

– Chuyển tiếp đối với trường hợp quỹ đất hình thành sau công trình phòng chống sạt lở bờ biển

Theo doanh nghiệp, trên thực tế có trường hợp chủ đầu tư đã bỏ kinh phí để thực hiện công trình phòng, chống sạt lở bờ biển và hình thành thêm diện tích đất liền kề từ hoạt động này, phần diện tích đất này không đủ điều kiện tách thành dự án độc lập. Hoạt động chống sạt lở bờ biển đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản.

Để đảm bảo hành lang pháp lý và đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư, phù hợp với tinh thần của chính sách lấn biển trong Luật Đất đai 2024, đề nghị bổ sung quy định chuyển tiếp cho trường hợp trên theo hướng: Chủ đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất thực hiện dự án đầu tư mà việc sạt lở bờ biển có nguy cơ ảnh hưởng trực tiếp đến diện tích đất của dự án và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận bằng văn bản cho phép tự bỏ kinh phí đầu tư thực hiện công trình phòng, chống sạt lở bờ biển trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành mà hình thành thêm diện tích đất liền kề với phần diện tích đất do chủ đầu tư đang sử dụng thì được Nhà nước giao đất, cho thuê đất không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, không thông qua đấu thầu dự án có sử dụng đất. Chủ đầu tư phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật về đất đai.”.

Trên đây là một số ý của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.