VCCI_Góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 88/2019/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng
VCCI_Góp ý Dự thảo Thông tư hướng dẫn Luật Quản lý thuế 2019, Nghị định 123/2020/NĐ-CP quy định về hóa đơn, chứng từ
File đính kèm
VCCI_Góp ý Dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi)
Kính gửi: Ủy ban Kinh tế Quốc hội
Trả lời Công văn số 95/UBKT15 của Ủy ban Kinh tế Quốc hội về việc đề nghị góp ý Dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến ban đầu như sau:
1. Hợp đồng bảo hiểm (Điều 12)
Khoản 2 Điều 12 Dự thảo quy định doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm có thể “kết hợp các loại hợp đồng bảo hiểm trong một hợp đồng bảo hiểm được quy định tại khoản 1 Điều này”. Quy định này có thể hiểu, doanh nghiệp bảo hiểm có thể ký kết hợp hợp đồng bảo hiểm con người và hợp đồng bảo hiểm tài sản và thiệt hại trong cùng một hợp đồng. Như vậy thì doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có thể cung cấp cả sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 67 Dự thảo thì “doanh nghiệp bảo hiểm không được phép kinh doanh đồng thời bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm sức khỏe” và có một số trường hợp ngoại lệ được liệt kê cụ thể. Như vậy, việc kết hợp các loại hợp đồng bảo hiểm trên có thể thực hiện trong các trường hợp ngoại lệ quy định tại khoản 3 Điều 67 Dự thảo.
Để đảm bảo tính rõ ràng và thống nhất giữa các quy định, đề nghị quy định rõ việc kết hợp các loại hợp đồng bảo hiểm trong một hợp đồng bảo hiểm áp dụng trong các trường hợp được liệt kê ở khoản 3 Điều 67 Dự thảo.
2. Điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm (Điều 16)
Khoản 3 Điều 16 Dự thảo quy định không áp dụng điều khoản loại trừ trách nhiệm bảo hiểm trong trường hợp bên mua bảo hiểm có lý do bất khả kháng trong việc chậm thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Thời gian thông báo về sự kiện bảo hiểm không có liên quan đến việc áp dụng điều khoản loại trừ bảo hiểm. Bất kể bên mua bảo hiểm có thông báo sớm hay muộn về sự kiện bảo hiểm (nếu vẫn trong thời hạn thông báo về sự kiện bảo hiểm theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm), dù vì bất kỳ lý do gì, mà sự kiện bảo hiểm rơi vào các trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm cũng không chi trả cho các sự kiện này. Do đó, việc đặt ra quy định không áp dụng điều khoản loại trừ trong trường hợp bên mua bảo hiểm có lý do bất khả kháng khi chậm thông báo về sự kiện bảo hiểm là chưa phù hợp.
Đề nghị bỏ quy định này.
3. Hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm
Khoản 2 Điều 19 Dự thảo quy định các trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm có quyền hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm và trong trường hợp này thì doanh nghiệp bảo hiểm “không phải bồi thường, trả tiền bảo hiểm và không hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm”.
Theo quy định tại Điều 427 Bộ luật dân sự, thì khi hợp đồng bị hủy bỏ thì hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận (trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp). Các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí hợp lý trong thực hiện hợp đồng và chi phí bảo quản, phát triển tài sản.
Việc Dự thảo quy định doanh nghiệp “không hoàn lại phí bảo hiểm cho bên mua bảo hiểm” khi hủy bỏ hợp đồng là chưa phù hợp với quy định về hủy bỏ hợp đồng quy định tại Bộ luật dân sự 2014. Đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại quy định này để đảm bảo tính thống nhất của quy định.
4. Hợp đồng bảo hiểm vô hiệu (Điều 22)
- Trường hợp hợp đồng vô hiệu
Điểm b khoản 1 Điều 22 Dự thảo quy định “tại thời điểm giao kết hợp đồng, đối tượng bảo hiểm không tồn tại” là một trong các trường hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu.
Quy định này không đủ rõ ở điểm: “đối tượng bảo hiểm không tồn tại” được hiểu là “không có đối tượng bảo hiểm” hay là “đối tượng bảo hiểm không tồn tại về mặt vật lý”? Nếu được hiểu “không có đối tượng bảo hiểm” thì quy định hợp đồng vô hiệu là hợp lý, nhưng “đối tượng bảo hiểm không tồn tại về mặt vật lý” lại là chưa phù hợp, bởi vì những tài sản hình thành trong tương lai (ví dụ: nhà ở) cũng được xem là một loại tài sản được bảo hiểm. Tại thời điểm giao kết hợp đồng, nhà ở chưa hề tồn tại (về mặt vật lý).
Vì vậy, đề nghị điều chỉnh lại quy định này để đảm bảo tính rõ ràng và phù hợp khi xác định các trường hợp hợp đồng vô hiệu.
- Vô hiệu từng phần
Khoản 2 Điều 22 Dự thảo quy định về hợp đồng bảo hiểm vô hiệu từng phần. Quy định này tương tự với quy định Điều 130 Bộ luật dân sự 2015, vì vậy không cần thiết phải quy định có tính chất nhắc lại tại Dự thảo. Đề nghị bỏ quy định tại khoản 2 Điều 22 và áp dụng chung theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.
5. Hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm (Điều 24)
Theo quy định tại khoản 4 Điều 24 Dự thảo thì bên mua bảo hiểm nhân thọ không phải đóng đủ phí bảo hiểm đến thời điểm chấm dứt hợp đồng bảo hiểm trong trường hợp đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Một số doanh nghiệp cho rằng quy định này chưa hợp lý, chưa bảo đảm sự công bằng với các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, bởi:
- Nếu xảy ra sự kiện bảo hiểm trong thời gian gia hạn đóng phí, doanh nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm trả tiền bảo hiểm trong khi không được thu phí bảo hiểm;
- Biên lợi nhuận của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ ngày càng chịu áp lực của cạnh tranh, lãi suất giảm. Đặc biệt, với các sản phẩm bảo hiểm mang tính bảo vệ đơn thuần, việc không được thu phí bảo hiểm trong thời gian gia hạn đóng phí sẽ tác động tiêu cực đối với các doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên, doanh nghiệp đề nghị bỏ quy định tại khoản 4 Điều 24 Dự thảo.
6. Người thụ hưởng (Điều 39)
Khoản 2 Điều 39 Dự thảo quy định “Đối với người được bảo hiểm chưa thành niên, hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ năng lực hành vi, hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ của họ có thể chỉ định người thụ hưởng”.
Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Dự thảo thì “Người thụ hưởng là tổ chức, cá nhân được bên mua bảo hiểm chỉ định để nhận tiền bảo hiểm theo thỏa thuận tại hợp đồng bảo hiểm, trừ trường hợp hợp đồng bảo hiểm nhóm”. Như vậy, khoản 2 Điều 39 Dự thảo quy định người đại diện theo pháp luật hoặc người giám hộ có quyền chỉ định người thụ hưởng là chưa phù hợp với quy định tại khoản 13 Điều 3 Dự thảo, quyền này thuộc về người mua bảo hiểm.
Đề nghị sửa đổi quy định tại khoản 2 Điều 39 Dự thảo như sau “Đối với người được bảo hiểm chưa thành niên, hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ năng lực hành vi hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì bên mua bảo hiểm phải có sự đồng ý của người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật của người được bảo hiểm khi chỉ định người thụ hưởng”.
7. Hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động (Điều 71)
Khoản 3 Điều 81 Dự thảo quy định nội dung trong phương án hoạt động năm năm đầu phải có “hiệu quả kinh doanh”, “lợi ích kinh tế của việc thành lập doanh nghiệp”. Đây là các nội dung rất khó để đánh giá tại thời điểm xin cấp giấy phép thành lập hoặc cũng không rõ cơ quan cấp phép sẽ đánh giá các nội dung này dựa vào tiêu chí gì. Vì vậy, đề nghị bỏ các nội dung này tại khoản 3 Điều 71 Dự thảo.
8. Thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động (Điều 75)
Điểm đ khoản 1 Điều 75 Dự thảo quy định doanh nghiệp bảo hiểm bị thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động “sau khi thẩm phán chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản trong trường hợp doanh nghiệp làm thủ tục phá sản”.
Quy định này cần được xem xét lại ở điểm: theo quy định tại Luật Phá sản 2014 thì khi doanh nghiệp đang trong giai đoạn mở thủ tục phá sản (tòa án thụ lý Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho đến trước khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp phá sản) vẫn tiến hành hoạt động kinh doanh dưới sự giám sát của Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Việc thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm sau khi thẩm phán chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản (tức là ở giai đoạn sau khi quyết định mở thủ tục phá sản) là chưa phù hợp, khiến cho doanh nghiệp doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động được trong giai đoạn này.
Đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi lại quy định trên theo hướng thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động sau khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp bảo hiểm phá sản.
9. Những thay đổi phải được chấp thuận hoặc phải thông báo (Điều 76)
Điểm a khoản 2 Điều 76 Dự thảo quy định doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo cho Bộ Tài chính khi “thay đổi điều lệ hoạt động”.
Việc yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải thông báo trước khi thay đổi Điều lệ sẽ chỉ làm gia tăng gánh nặng về thủ tục hành chính cho các doanh nghiệp, đi ngược lại với định hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính của Việt Nam và cũng không thống nhất với quy định của Luật Doanh nghiệp.
Điều lệ của doanh nghiệp là văn bản ghi nhận các nguyên tắc tạo lập, hoạt động và giải thể của một doanh nghiệp, trong đó có nhiều quy định mang tính chất quản lý nội bộ của doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp hiện hành cho phép các doanh nghiệp được tự chủ trong việc sửa đổi Điều lệ mà không cần phải đăng ký/thông báo, trừ trường hợp thay đổi chủ sở hữu. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, các thay đổi quan trọng đã phải thực hiện các thủ tục xin phê duyệt từ Bộ Tài chính, do đó, việc yêu cầu thông báo trước khi thay đổi Điều lệ là không thực sự cần thiết.
Do đó, đề nghị bỏ quy định này.
10. Cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm (Điều 83)
Khoản 2 Điều 83 Dự thảo quy định Cơ cấu tổ chức quản lý của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn bao gồm Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc), Ban kiểm soát.
Đề nghị bỏ quy định bắt buộc phải có Ban Kiểm soát đối với trường hợp Công ty TNHH tại Khoản 2. Bởi vì, Luật doanh nghiệp 2020 chỉ quy định bắt buộc có Ban Kiểm soát đối với công ty TNHH là doanh nghiệp nhà nước còn “trường hợp khác do công ty quyết định” (Điều 54 và Điều 79 Luật doanh nghiệp 2020).
11. Nguyên tắc phân công đảm nhiệm chức vụ (Điều 85)
Theo quy định tại khoản 4 Điều 85 Dự thảo thì chuyên gia tính toán không được đồng thời kiêm nhiệm bất kỳ chức danh nào tại cùng một tổ chức. Thực tế, chuyên gia tính toán ngoài công việc chuyên môn của chuyên gia tính toán còn đảm nhận các nhiệm vụ khác tại tổ chức. Các doanh nghiệp cho rằng, nếu hạn chế việc kiêm nhiệm các chức danh khác sẽ gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. Đề nghị sửa đổi quy định theo hướng chuyên gia tính toán không được kiêm nhiệm một số chức danh nhất định mà không phải là hạn chế tất cả.
12. Kiểm toán nội bộ (Điều 88)
Khoản 1 Điều 88 Dự thảo quy định “Doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần phải thành lập bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị (Hội đồng thành viên)”.
Theo Luật doanh nghiệp, kiểm toán nội bộ có thể được giám sát, đánh giá bởi Hội đồng quản trị (Hội đồng thành viên), Ủy ban kiểm toán hoặc Ban kiểm soát tùy theo từng loại mô hình hoạt động doanh nghiệp. Ủy ban kiểm toán giám sát hoạt động của doanh nghiệp giúp Hội đồng quản trị (Hội đồng thành viên), và Ban kiểm soát giám sát Hội đồng quản trị (Hội đồng thành viên) và hoạt động của doanh nghiệp giúp Chủ sở hữu.
Theo doanh nghiệp trên thực tế, bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc Ban kiểm soát hoặc Ủy ban kiểm toán là mô hình tối ưu. Mô hình đó giúp cho bộ phận kiểm toán nội bộ và Ban kiểm soát/Ủy ban kiểm toán phát huy tối đa chức năng và vai trò của mình. Đề nghị điều chỉnh quy định trên để đảm bảo tính hợp lý.
13. Phá sản doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm (Điều 103)
Dự thảo quy định “khi nhận được yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm theo quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản và áp dụng ngay thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm”.
Quy định này cần được xem xét ở một số vấn đề sau:
- Theo quy định của Luật Phá sản 2014 thì thủ tục thanh lý tài sản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện sau khi có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Tòa án. Theo quy định tại khoản 2 Điều 103 Dự thảo thì thủ tục thanh lý tài sản lại thực hiện sau khi “Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản” là chưa phù hợp;
- Khoản 2 Điều 103 Dự thảo được hiểu là quy định thủ tục phá sản riêng biệt đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, doanh nghiệp tái bảo hiểm so với các doanh nghiệp khác theo quy định tại Luật Phá sản 2014. Tuy nhiên, Luật Phá sản 2014 lại không quy định về trình tự riêng đối với doanh nghiệp bảo hiểm mà chỉ quy định cho tổ chức tín dụng. Như vậy, quy định này cần phải được xem xét để đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống pháp luật về phá sản.
Đề nghị xem xét các vấn đề trên để đảm bảo tính thống nhất.
14. Điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm (Điều 117)
Điểm b khoản 2 Điều 117 Dự thảo quy định tổ chức hoạt động đại lý bảo hiểm phải đáp ứng điều kiện “Đã đăng ký ngành, nghề kinh doanh hoạt động đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật doanh nghiệp. Đối với các tổ chức hoạt động trong ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì giấy phép, giấy chứng nhận hoặc văn bản xác nhận, chấp thuận khác (nếu có) của cơ quan có thẩm quyền có nội dung hoạt động đại lý bảo hiểm”.
Theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp thì Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp không còn ghi ngành nghề đăng ký kinh doanh. Hiện nay, các cơ quan cấp giấy phép kinh doanh hoặc quản lý ngành nghề kinh doanh có điều kiện cũng không xem xét về ngành nghề đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp trong lĩnh vực mà doanh nghiệp xin cấp phép hoặc phải đáp ứng điều kiện.
Về quy định “giấy phép, giấy chứng nhận hoặc văn bản xác nhận, chấp thuận khác (nếu có) của cơ quan có thẩm quyền có nội dung hoạt động đại lý bảo hiểm” là chưa phù hợp. Bởi các giấy phép kinh doanh khác (gọi chung của các giấy phép, giấy chứng nhận, văn bản xác nhận, chấp thuận) sẽ không thể có nội dung về “nội dung hoạt động đại lý bảo hiểm” vì các văn bản chuyên ngành khác sẽ không điều chỉnh về hoạt động đại lý bảo hiểm. Tất cả các điều kiện kinh doanh về đại lý bảo hiểm được quy định tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật này thì không quy định về giấy phép kinh doanh đại lý bảo hiểm.
Tóm lại, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 117 Dự thảo là chưa phù hợp và cũng không rõ mục tiêu của quy định này là gì. Đề nghị bỏ quy định này.
15. Nội dung hợp đồng đại lý bảo hiểm (Điều 118)
Điều 118 Dự thảo quy định về các nội dung chủ yếu của hợp đồng đại lý bảo hiểm. Các nội dung này có trong bất kì một hợp đồng đại lý của các ngành nghề khác, vì vậy không có tính đặc thù, có thể áp dụng quy định của pháp luật dân sự, thương mại chung và không nên quy định tại Dự thảo. Đề nghị bỏ quy định tại Điều 118 Dự thảo.
Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Kinh doanh bảo hiểm. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.