VCCI_Góp ý Dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi)

Thứ Hai 16:06 09-01-2023

Kính gửi: Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội

Trả lời Công văn số 926/UBTCNS15 của Ủy ban Tài chính, Ngân sách về việc đề nghị viết bài tham luận cho Hội thảo lấy ý kiến về Dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có một số ý kiến đối với Dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi) (sau đây gọi tắt là Dự thảo) (phiên bản tháng 12.2022) như sau:

  1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

Khoản 76 Điều 5 Nghị định 155/2018/NĐ-CP[1] quy định: “cơ sở bán lẻ thuốc trong khuôn viên cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập chỉ được mua thuốc trúng thầu của chính cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, thuốc đã có quyết định trúng thầu tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh, tuyến trung ương trong vòng 12 tháng; thuốc đã có quyết định trúng thầu mua sắm tập trung cấp địa phương, cấp quốc gia trong thời hạn của hợp đồng hoặc thỏa thuận khung mua sắm tập trung tính đến trước thời điểm mua thuốc”.

Quy định này khiến cho trên thực tế có một số khó khăn cho: “các bệnh viện trong việc mua các loại thuốc chưa có kết quả trúng thầu, hạn chế người bệnh được sử dụng các loại thuốc nhóm 1, nhóm 2 có hiệu quả điều trị cao mặc dù có khả năng thanh toán…”. Trong Thông báo số 275/TB-VPCP ngày 02/8/2018 về Kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam tại cuộc họp về vấn đề cung ứng thuốc tại các bệnh viện yêu cầu Bộ Y tế rà soát  “quyết định theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định việc đổi mới phương thức mua thuốc đáp ứng yêu cầu điều trị,” “Chủ trì, phối hợp với Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan liên quan tiến hành rà soát quy định về việc đấu thầu thuốc theo hướng cho các bệnh viện được tự chủ mua thuốc, khắc phục tình trạng người bệnh có nhu cầu và khả năng chi trả song lại không được sử dụng các loại thuốc theo yêu cầu”. Để giải quyết tình trạng trên, theo ý kiến của doanh nghiệp, trước hết phải sửa đổi quy định về xác định phạm vi mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế của cơ sở y tế công lập phải thực hiện đấu thầu theo quy định tại Luật Đấu thầu. Cho phép cơ sở y tế công lập được phép chủ động mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế đối với các nguồn vốn không phải là vốn nhà nước, nguồn quỹ bảo hiểm y tế.

So với quy định hiện hành, Dự thảo gần như giữ nguyên quy định cơ sở y tế công lập mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế sử dụng “vốn nhà nước, nguồn quỹ bảo hiểm y tế, nguồn thu từ dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và nguồn thu hợp pháp khác” thuộc trường hợp phải đấu thầu để lựa chọn nhà thầu (điểm e khoản 2 Điều 1). Theo quy định này thì việc mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế của cơ sở y tế công lập đều phải thực hiện đấu thầu. Điều này sẽ làm hạn chế khả năng tự chủ chủ các cơ sở y tế công lập trong việc mua sắm thuốc và khó tạo cơ hội lựa chọn thuốc của người bệnh khi khám chữa bệnh nêu trên.

Để tạo cơ sở cho việc sửa đổi các quy định tại pháp luật về dược, một số doanh nghiệp đề nghị cân nhắc điều chỉnh lại quy định này tại Dự thảo theo hướng bỏ mua sắm thuốc, vật tư, trang thiết bị y tế từ nguồn thu từ dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh và nguồn thu hợp pháp khác của cơ sở y tế công lập là đối tượng phải thực hiện đấu thầu.

  1. Đấu thầu quốc tế (Điều 11)
  • Điều kiện tổ chức đấu thầu quốc tế để lựa chọn nhà thầu

Điểm b khoản 1 Điều 11 Dự thảo quy định điều kiện tổ chức đấu thầu quốc tế để lựa chọn nhà thầu là “gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn mà người có thẩm quyền xét thấy cần có sự tham gia của nhà thầu nước ngoài để nâng cao chất lượng của gói thầu dự án”.

Quy định này cho phép người có thẩm quyền toàn quyền quyết định có sự tham gia của nhà thầu nước ngoài hay không vào gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn trong khi căn cứ để quyết định khá chung chung “nâng cao chất lượng của gói thầu, dự án”. Điều này sẽ khiến cho quy định về điều kiện tổ chức đấu thầu quốc tế tại điểm a khoản 1 Điều 11 … không còn nhiều ý nghĩa.

Bởi, cho dù gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn mà nhà thầu trong nước có khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện gói thầu hoặc có nhiều nhà thầu tham gia sơ tuyển, mời quan tâm hoặc đấu thầu rộng rãi trong nước – những gói thầu phải đấu thầu trong nước, thì cũng có thể tổ chức đấu thầu quốc tế nếu người có thẩm quyền xét thấy cần có sự tham gia của nhà thầu nước ngoài để nâng cao chất lượng của gói thầu, dự án.

Đề nghị hoặc quy định điểm b khoản 1 Điều 11 theo hướng có thể định lượng hơn hoặc bỏ quy định này để tránh bị lạm dụng và làm giảm ý nghĩa của các quy định về điều kiện khác đấu thầu quốc tế.

  • Tổ chức đấu thầu quốc tế để lựa chọn nhà đầu tư

Theo quy định tại Dự thảo Luật Đất đai, điều kiện để nhà đầu tư tham gia đấu thầu các dự án có sử dụng đất là: “thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Luật này”.

Điều 128, 129 Dự thảo Luật Đất đai quy định về các trường hợp, đối tượng được giao đất, cho thuê đất. Tổ chức, cá nhân nước ngoài không được xem là người sử dụng đất, vì vậy không thuộc trường hợp quy định tại Điều 128, 129 Dự thảo Luật. Và vì vậy, không đáp ứng điều kiện là nhà đầu tư tham gia đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất. Tóm lại, theo quy định tại Dự thảo Luật Đất đai, tổ chức, cá nhân nước ngoài không được tham gia đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư đối với các dự án đầu tư có sử dụng đất.

Vì vậy, để đảm bảo tính thống nhất và rõ ràng, đề nghị điều chỉnh lại quy định tại khoản 2 Điều 12 Dự thảo theo hướng: Dự án đầu tư có sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai

  1. Các trường hợp hủy thầu đối với lựa chọn nhà đầu tư (Điều 17)

Khoản 2 Điều 17 Dự thảo liệt kê các trường hợp hủy thầu đối với lựa chọn nhà đầu tư, trong đó có trường hợp quy định tại điểm b là “thay đổi mục tiêu, quy mô, địa điểm, vốn đầu tư của dự án trong quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư (đối với dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư) hoặc quyết định phê duyệt danh mục dự án đầu tư kinh doanh (đối với dự án không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư) ảnh hưởng tới hồ sơ mời thầu”.

Theo quy định tại khoản 4 Điều 17 Dự thảo thì trường hợp hủy thầu theo quy định tại điểm b khoản 2 thì các bên liên quan sẽ không được đền bù chi phí. Điều này dường như chưa thật phù hợp và đảm bảo công bằng cho các nhà đầu tư khi tham dự thầu. Các nhà đầu tư đã phải bỏ ra chi phí để tham gia đấu thầu. Việc thay đổi mục tiêu, quy mô, địa điểm, vốn đầu tư của dự án xuất phát từ cơ quan nhà nước, không phải là lỗi của các nhà đầu tư, vì vậy trong trường hợp này, nhà đầu tư cần phải được đền bù về chi phí tương tự như cơ chế bồi hoàn chi phí liên quan đến việc tham dự thầu của nhà thầu quy định tại Điều 39 Dự thảo.

  1. Các hành vi bị cấm trong hoạt động đấu thầu (Điều 16)

Điểm c khoản 2 Điều 16 Dự thảo quy định cấm chủ đầu tư, bên mời thầu “Nêu yêu cầu cụ thể về nhãn hiệu, xuất xứ hàng hóa trong hồ sơ mời thầu đối với gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp hoặc gói thầu hỗn hợp khi áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế, chào hàng cạnh tranh, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 và 4 Điều 41 của Luật này”.

Khoản 4 Điều 41 Dự thảo quy định “trường hợp cần thiết để đảm bảo mua được hàng hóa có chất lượng tốt đáp ứng yêu cầu sử dụng thì trong hồ sơ mời thầu có thể quy định về xuất xứ của hàng hóa từ một số quốc gia, vùng lãnh thổ”. Quy định này chưa đủ rõ ràng và trao nhiều quyền cho bên mời thầu quyết định việc xác định xuất xứ của hàng hóa.

Kết hợp điều này với điểm c khoản 2 Điều 16 Dự thảo, rất khó để xác định khi nào thì yêu cầu cụ thể về nhãn hiệu, xuất xứ thuộc trường hợp cấm lúc nào thì thuộc trường hợp được phép. Vì “trường hợp cần thiết” là một khái niệm rất chung, mang tính định tính và các bên có thể diễn giải áp dụng theo các cách khác nhau.

  1. Lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt (Mục 2 Chương II)

So với quy định hiện hành, Dự thảo đã bổ sung quy định về lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt. Quy định này được hiểu nhằm giải quyết cho các trường hợp các dự án, dự toán thuộc trường hợp phải phải thực hiện đấu thầu, nhưng không thể tổ chức theo quy trình đấu thầu thông thường. Dự thảo đã thiết kế riêng quy trình, thủ tục lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong các trường hợp đặc biệt. Vì đây là quy định mới và là các trường hợp ngoại lệ, không phải áp dụng theo quy trình đấu thầu thông thường nên cần thiết phải quy định đủ rõ để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện, tránh bị lạm dụng và tạo rủi ro pháp lý cho các đối tượng thực hiện.

Các quy định tại Mục 2 Chương II Dự thảo còn khá chung chung và chưa đủ rõ ở một số điểm, cụ thể:

  • Các trường hợp lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt (Điều 27)

Điểm c khoản 2 Điều 27 Dự thảo quy định “Gói thầu mua sắm vắc xin trong quá trình thử nghiệm, có yêu cầu đặc thù của nhà sản xuất về điều kiện mua, thanh toán, bảo lãnh, bảo đảm và điều kiện khác trong quá trình thực hiện hợp đồng” thuộc trường hợp đặc biệt là phù hợp. Tuy nhiên, việc mua sắm vắc xin của trường hợp này phải gắn với điều kiện cụ thể nào đó. Ví dụ, việc mua sắm vắc xin covid -19 phải gắn với trường hợp đại dịch covid -19 đang diễn ra, cần thiết phải có vắc xin để phòng ngừa, kiểm soát dịch bệnh. Còn trong trường hợp không có dịch bệnh, các nguy cơ tác động đến lợi ích công cộng (sức khỏe, tính mạng con người) chưa đủ rõ ràng, thì việc mua sắm vắc xin trong quá trình thử nghiệm với các yêu cầu của nhà sản xuất như quy định tại điểm c khoản 2 Điều 27 Dự thảo là chưa hợp lý.

Đề nghị xem xét bổ sung điều kiện vào quy định tại điểm c khoản 2 Điều 27 Dự thảo theo hướng: gói thầu mua sắm vắc xin trong quá trình thử nghiệm, có yêu cầu đặc thù của nhà sản xuất về điều kiện mua, thanh toán, bảo lãnh, bảo đảm và điều kiện khác trong quá trình thực hiện hợp đồng trong trường hợp dịch bệnh đang và/hoặc nguy cơ diễn ra.

  • Quy trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt (Điều 29)

Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 28 Dự thảo, Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định:

  • Phương án lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp dự án, gói thầu quy định tại điểm a khoản 2 Điều 27 Dự thảo đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư;
  • Phương án lựa chọn nhà thầu đối với gói thầu thuộc phạm vi quản lý quy định tại điểm b, c và đ khoản 2 Điều 27 Dự thảo

Điều 29 Dự thảo quy định về quy trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt, tuy nhiên chỉ quy định về quy trình Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phê duyệt phương án lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 27. Không rõ, đối với trường hợp quy định tại điểm c, đ khoản 2 Điều 27 Dự thảo, Phương án lựa chọn nhà thầu sẽ được phê duyệt theo quy trình nào?

Mặt khác, quy định tại Dự thảo cũng chưa rõ thẩm quyền quyết định lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt quy định tại điểm d khoản 2 Điều 27 Dự thảo cũng như quy trình để phê duyệt phương án lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp này.

Điểm c khoản 2 Điều 1 Dự thảo “dự toán mua sắm sử dụng vốn nhà nước nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập; dự toán mua sắm sử dụng vốn nhà nước của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội” là trường hợp phải tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu. Theo quy định này thì bất kì khoản mua sắm nào để duy trì hoạt động thường xuyên của các chủ thể trên có nguồn gốc từ vốn nhà nước, đều phải tổ chức đấu thầu. Theo đó, rất nhiều khoản chi trong chi thường xuyên có giá trị từ vài trăm nghìn đồng đến một vài triệu đồng như các khoản sửa chữa thường xuyên phát sinh đột xuất như: sửa xe ô tô, máy tính, máy in, điều hoà; sửa một vài chỗ hư hỏng nhỏ như nền nhà, cửa sổ, bàn làm việc, tủ tài liệu; …cũng nằm trong danh mục phải tổ chức lựa chọn nhà thầu. Điều này gây khó khăn trong hoạt động của các chủ thể trên.

Điểm d khoản 2 Điều 27 Dự thảo lại quy định “Gói thầu thuộc dự toán mua sắm sử dụng vốn nhà nước nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của cơ quan nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân, đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo quy định của Chính phủ”. Có thể quy định này sẽ giải quyết cho bất cập được nêu ở trên, tuy nhiên lại chưa đủ rõ ràng về các nội dung như: thẩm quyền quyết định, Chính phủ sẽ quy định về vấn đề gì (điều kiện để gói thầu này thuộc trường hợp đặc biệt – để phân biệt với trường hợp quy định tại điểm c khoản 2 Điều 1 Dự thảo? quy trình lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt này như thế nào?).

Để đảm bảo tính minh bạch của quy định và thuận lợi trong quá trình thực hiện, đề nghị quy định rõ các vấn đề trên.

Tóm lại, các quy định tại Mục 2 Chương II Dự thảo còn khá chung chung, nhiều quy định mang tính định tính, nếu áp dụng các quy định này mà không có hướng dẫn thêm thì sẽ rất khó để thực hiện. Đề nghị cân nhắc bổ sung quy định trao quyền cho Chính phủ hướng dẫn thêm quy định về quy trình lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư trong trường hợp đặc biệt.

  1. Hợp đồng với nhà đầu tư (Mục 2 Chương VII)

Mục 2 Chương VII Dự thảo quy định về các nội dung liên quan đến hợp đồng với nhà đầu tư. Một số vấn đề cần được xem xét như sau:

  • Nội dung hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh (Điều 71)

Điểm c khoản 1 Điều 71 Dự thảo quy định hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh có nội dung “thiết kế, tổ chức thi công; vận hành, sản xuất, kinh doanh của dự án”.

Theo quy định của pháp luật về đầu tư, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư là một trong các phương thức lựa chọn nhà đầu tư để thực hiện dự án đầu tư. Sau khi được lựa chọn, nhà đầu tư sẽ sử dụng vốn của mình để triển khai thực hiện dự án và tổ chức hoạt động kinh doanh đối với dự án này. Nhà đầu tư sẽ chịu trách nhiệm đối với hiệu quả của dự án đầu tư và phải tuân thủ các quy định của pháp luật về đầu tư, đất đai, xây dựng, các pháp luật chuyên ngành khác.

Với tính chất này, không rõ trong hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh sẽ thỏa thuận vấn đề gì? Quy định này cũng có khả năng không thống nhất với quy định tại Điều 72 Dự thảo về thời hạn của hợp đồng. Theo quy định tại Điều 72 Dự thảo thì thời hạn của hợp đồng kéo dài cho đến khi “hoàn thành nghĩa vụ đầu tư, xây dựng công trình”, trong khi đó nội dung này thì thỏa thuận đến cả khi “vận hành, sản xuất, kinh doanh của dự án”.

Đề nghị bỏ cụm từ “vận hành, sản xuất, kinh doanh của dự án” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 71 Dự thảo.

  • Sửa đổi, chấm dứt hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh (Điều 74)

Khoản 1 Điều 74 Dự thảo liệt kê các trường hợp hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh được sửa đổi là:

(1) “Khi dự án đầu tư thuộc trường hợp và đáp ứng điều kiện để điều chỉnh dự án, điều chỉnh chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư”;

(2) “Khi chuyển nhượng dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan”;

(3) Khi điều chỉnh thời hạn hợp đồng dự án;

(4) Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật được các bên thỏa thuận tại hợp đồng.

Theo quy định tại pháp luật đầu tư thì trường hợp (2), (3) đều thuộc trường hợp điều chỉnh dự án đầu tư, tức là thuộc trường hợp (1). Việc liệt kê theo hướng trên khiến cho quy định bị rối và khiến cho nhà đầu tư không biết phải thực hiện thủ tục như thế nào khi thuộc các trường hợp hợp đồng phải sửa đổi. Bởi vì, khoản 2 Điều 74 chỉ hướng dẫn thủ tục cho sửa đổi hợp đồng thuộc trường hợp (1), không rõ khi thuộc trường hợp (2), (3), (4) thì sẽ phải thực hiện thủ tục như thế nào.

Riêng trường hợp chuyển nhượng dự án đầu tư, pháp luật đầu tư quy định có hai trường hợp: (1) chuyển nhượng phải điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, (2) chuyển nhượng không thuộc trường hợp điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư, áp dụng theo quy định của pháp luật chuyên ngành khác (dân sự, bất động sản). Quy định tại Điều 74 Dự thảo là không rõ về trường hợp sửa đổi hợp đồng trong trường hợp chuyển nhượng dự án đầu tư không thuộc trường hợp điều chỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư.

Tóm lại, để đảm bảo tính rõ ràng, đề nghị điều chỉnh lại Điều 74 theo hướng:

  • Liệt kê các trường hợp sửa đổi hợp đồng theo hướng: (1) các trường hợp phải điều chỉnh dự án, điều chỉnh chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư; (2) các trường hợp không thuộc trường hợp số (1);
  • Quy định quy định sửa đổi hợp đồng trong trường hợp phải điều chỉnh dự án đầu tư, chủ trương đầu tư và trường hợp không phải điều chỉnh chủ trương đầu tư.
  • Tiêu đề của Điều 74 Dự thảo quy định về “sửa đổi, chấm dứt hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh” nhưng Điều 74 lại không quy định về trường hợp chấm dứt hợp đồng này. Đề nghị bổ sung các trường hợp chấm dứt hợp đồng dự án đầu tư kinh doanh.
  1. Một số góp ý về kỹ thuật soạn thảo văn bản
  2. Tư cách hợp lệ của nhà thầu, nhà đầu tư (Điều 5)

Đề nghị quy định rõ hơn tại điểm c khoản 1 Điều 5 Dự thảo. Thay cụm từ “không thuộc trường hợp mất khả năng thanh toán theo quy định của pháp luật về phá sản” thành “không trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản”.

  1. Về chỉ định thầu (Điều 21)

Điểm I khoản 1 Điều 21 Dự thảo quy định “Gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn” thuộc trường hợp chỉ định thầu. Điều này được hiểu tất cả gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn đều thuộc trường hợp chỉ định thầu. Điều này dường như chưa thật phù hợp, ngay trong chính khoản 1 Điều 21 Dự thảo đã quy định các loại gói thầu cung cấp dịch vụ tư vấn cụ thể thuộc trường hợp được chỉ định thầu

  1. Làm rõ các khái niệm tại Dự thảo

Dự thảo có nhiều khái niệm mang tính chung chung, định tính và sẽ tạo rủi ro pháp lý cho các đối tượng áp dụng. Đề nghị quy định có tính định lượng hơn các khái niệm này, cụ thể:

  • Gói thầu có “quy mô lớn, phức tạp” (điểm đ khoản 2 Điều 21)
  • Gói thầu dịch vụ phi tư vấn “thông dụng, đơn giản” (khoản 1 Điều 22)
  • Gói thầu công nghệ thông tin phức tạp (điểm b khoản 1 Điều 32)
  • Dự án đầu tư kinh doanh có yêu cầu “đặc thù phát triển kinh tế, xã hội của ngành, vùng, địa phương” (điểm c khoản 1 Điều 32)
  • Gói thầu quy mô nhỏ (điểm b khoản 1 Điều 42);
  • Gói thầu có tính chất đơn giản (điểm c khoản 1 Điều 42)

Trên đây là một số ý kiến của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Đấu thầu (sửa đổi). Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

[1] Nghị định 155/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh thuộc quản lý của Bộ Y tế