VCCI góp ý Dự thảo Thông tư Quy định về lộ trình và điều kiện cho thương nhân Việt Nam tham gia giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài

Thứ Sáu 13:48 27-06-2014

Kính gửi: Vụ Thị trường trong nước – Bộ Công Thương

Trả lời Công văn số 3284/BCT-TTTN của Bộ Công Thương về việc đề nghị góp ý Dự thảo Thông tư quy định lộ trình, điều kiện và phạm vi đối với thương nhân Việt Nam hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), trên cơ sở ý kiến của doanh nghiệp, có một số ý kiến như sau:

Ngày 31/07/2013, VCCI đã gửi Công văn số 1949/PTM-PC góp ý Dự thảo Thông tư quy định lộ trình, điều kiện và phạm vi đối với thương nhân Việt Nam hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài. Đối chiếu với Dự thảo hiện tại, một số ý kiến của VCCI đã được ghi nhận và tiếp thu, tuy nhiên vẫn còn một số ý kiến chưa tiếp thu và VCCI cũng chưa nhận được phản hồi về việc không tiếp thu này.

Trên cơ sở bản Dự thảo (phiên bản tháng 4/2014), VCCI có một số ý kiến như sau:

1.      Về lộ trình tham gia giao dịch (Điều 3)

Tên của Dự thảo là “quy định lộ trình, điều kiện đối với thương nhân Việt Nam tham gia giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài”, khoản 1 Điều 5 Nghị định 158 quy định “Thương nhân Việt Nam có quyền tham gia hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài theo lộ trình, điều kiện và phạm vi do Bộ Thương mại quy định và công bố trong từng thời kỳ”.

Như vậy, có thể hiểu Dự thào này sẽ quy định lộ trình để nhà đầu tư, thương nhân tham gia giao dịch hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài. Tuy nhiên, Dự thảo lại quy định “Nhà đầu tư, thương nhân được tham gia giao dịch hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài với những mặt hàng thuộc Danh mục hàng hóa do Bộ trưởng Bộ Công Thương công bố trong từng thời kỳ” – quy định này cho thấy, nhà đầu tư, thương nhân tiếp tục “chờ” một văn bản khác quy định về lộ trình này. Điều này là chưa hợp lý bởi vì, đây là văn bản cấp Thông tư, hướng dẫn thi hành Nghị định 158 nên phải quy định cụ thể nội dung được hướng dẫn. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo quy định ngay tại Dự thảo lộ trình này.

2.      Về điều kiện đối với thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài (Điều 4)

So với bản Dự thảo trước, các quy định về thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài tại Dự thảo này có nhiều thay đổi theo hướng áp đặt điều kiện chặt chẽ hơn, theo đó:

-         (1) Chủ thể: Doanh nghiệp được thành lập hợp pháp có ngành nghề kinh doanh được đăng ký liên quan và đang trực tiếp kinh doanh các mặt hàng đăng ký mua bán qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài. Nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 49%.

-         (2) Phương thức thực hiện: thông qua các tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cho phép hoạt động thí điểm một số sản phẩm phái sinh giá cả hàng hóa và được Bộ Công Thương thẩm định đáp ứng các quy định về giải pháp công nghệ, yêu cầu kỹ thuật trong hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch quy định tại Thông tư 38/2013 hoặc thông qua thành viên môi giới của Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài đặt tại Việt Nam được sự cho phép của Bộ Công Thương.

-         (3) Đề xuất với Bộ Công Thương hạn mức hàng hóa xuất nhập khẩu cần bảo hiểm rủi ro trong giới hạn hạn ngạch xuất nhập khẩu quy định. Thương nhân Việt Nam có thể có nhiều vị thế giao dịch mở tại một thời điểm nhưng vị thế thuần không được vượt quá hạn mức đã đăng ký với Bộ Công Thương.

-         (4) Chỉ được giao dịch các mặt hàng và hợp đồng trong phạm vi được Bộ Công Thương cho phép

Quy định trên là chưa hợp lý và thiếu minh bạch ở các điểm:

-         Có cần thiết phải áp đặt quá nhiều điều kiện đối với thương nhân Việt Nam khi thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài không?

Nếu các ràng buộc các điều kiện chặt chẽ nhằm bảo vệ các doanh nghiệp Việt Nam tránh bị thua thiệt khi mua bán qua Sở Giao dịch hàng hóa thì điều này là không cần thiết, bởi đây là trách nhiệm tự thân của mỗi doanh nghiệp cần phải tìm hiểu và nắm bắt được phương thức mua bán này để tránh nguy cơ thua lỗ, đổ vỡ, Nhà nước không cần thiết phải can thiệp.

Nếu áp đặt các điều kiện để đảm bảo sự ổn định của thị trường hàng hóa trong nước hoặc để đảm bảo mục tiêu quản lý Nhà nước khác thì Ban soạn thảo cần phải có giải trình rõ ràng và đầy đủ những nguy cơ có thể có phát sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa của thương nhân Việt Nam qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài và những điều kiện trên là hợp lý trong việc đạt được các mục tiêu trên. Thực tế, thực hiện mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài đang được thực hiện phổ biến ở nhiều nước trên thế giới. Đây được xem là một trong những phương thức giao dịch để doanh nghiệp bảo hiểm rủi ro về giá, tránh những tác động tiêu cực của thị trường, góp phần nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Như vậy, với tính chất của phương thức giao dịch này thì Nhà nước cần khuyến khích các thương nhân tham gia vào hoạt động mua bán qua Sở Giao dịch thay vì áp đặt quá nhiều điều kiện đối với các doanh nghiệp tham gia giao dịch.

-         Điều kiện về chủ thể: Dự thảo quy định thương nhân tham gia Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài phải là doanh nghiệp, trong khi đó theo quy định tại Luật Thương mại (khoản 1 Điều 6) thì thương nhân bao gồm cả cá nhân và tổ chức. Ban soạn thảo cần đưa ra các giải trình hợp lý, tại sao lại chỉ cho phép doanh nghiệp thực hiện mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài mà không phải là cá nhân, trong khi thực tế Việt Nam có rất nhiều nông sản – chủ yếu từ người nông dân, rất muốn đưa sản phẩm ra thị trường thế giới và muốn thoát khỏi tình trạng bị ép giá, thì giao dịch qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài là kênh khá hiệu quả.

Hơn nữa, quy định “doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép đầu tư có ngành nghề kinh doanh liên quan … các mặt hàng đăng ký mua bán …” là chưa rõ ràng, như thế nào được cho là có ngành nghề kinh doanh liên quan với các mặt hàng đăng ký mua bán qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài?

Đối với điều kiện áp đặt về tỷ lệ vốn vóp của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không rõ mục tiêu và ý nghĩa của quy định này là gì? Tại sao lại không cho phép doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài trên 49% được tham gia mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài? Quy định này có tác động đáng kể đến quyền lợi của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khi không được tham gia vào phương thức mua bán hàng hóa khá hiệu quả này và vô hình trung ảnh hưởng đến sự thu hút đầu tư của nước ta.

-         Về yêu cầu “thương nhân Việt Nam mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài … được Bộ Công Thương thẩm định đáp ứng các quy định về giải pháp công nghệ, yêu cầu kỹ thuật trong hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa tại Thông tư 38 …”. Quy định này dường như là chưa hợp lý, bởi thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài sẽ phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của Sở Giao dịch đó và các yêu cầu của pháp luật nước sở tại để đảm bảo cho giao dịch qua phương thức này được thực hiện. Nếu quy định này nhằm mục tiêu sàng lọc doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng về các yêu cầu kĩ thuật để tham gia vào Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài là không cần thiết, vì đây là yêu cầu mà tự thân doanh nghiệp buộc phải đáp ứng nếu muốn tham gia giao dịch qua phương thức này.

Về yêu cầu “thông qua thành viên môi giới của Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài đặt tại Việt Nam được sự cho phép của Bộ Công Thương” là chưa rõ ràng ở điểm, làm thế nào để biết được những thành viên môi giới của Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài đặt tại Việt Nam được sự cho phép của Bộ Công Thương? Những điều kiện nào để thành viên môi giới của Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài đặt tại Việt Nam nhận được “sự chấp thuận” của Bộ Công Thương? Trình tự, thủ tục cấp phép như thế nào? Hơn nữa, quy định này có được hiểu là thương nhân Việt Nam không được phép tham gia Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài thông qua thành viên môi giới ở nước ngoài? Ban soạn thảo cần có giải trình về vấn đề này vì đây là quy định có thể gây khó khăn đáng kể cho các thương nhân Việt Nam muốn tham gia mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài.

-         Về yêu cầu hạn ngạch xuất khẩu: Không rõ “giới hạn hạn ngạch xuất nhập khẩu” mà thương nhân phải tuân thủ quy định ở đâu và hạn ngạch này là theo từng quý hay cho cả năm? Trong thực tế, hàng hóa xuất nhập khẩu không phải loại nào cũng có quy định về hạn ngạch, nếu không quy định rõ vấn đề này sẽ gây khó khăn trong quá trình triển khai. Nếu hạn ngạch xuất khẩu là do doanh nghiệp đề xuất và đăng ký với Bộ Công Thương thì quy định này là ít ý nghĩa, bởi vì doanh nghiệp chỉ cần đưa ra một con số không cần biết con số đó căn cứ dựa trên yếu tố nào, cơ quan nhà nước cũng không thẩm định bởi vì thiếu căn cứ để thực hiện việc này và con số thực tế mà doanh nghiệp xuất nhập khẩu không đảm bảo là phù hợp với con số đăng ký. Hơn nữa, yêu cầu doanh nghiệp đăng ký hạn mức xuất nhập khẩu vào thời điểm đầu năm và yêu cầu các giao dịch trong năm không vượt quá con số đăng ký đó dường như là chưa hợp lý, chưa phù hợp với yếu tố thị trường, bởi vì tại thời điểm đầu năm, doanh nghiệp khó có thể dự báo được các giao dịch mà mình sẽ ký kết trong cả một năm vì còn tùy thuộc vào sự biến đổi của thị trường, những cơ hội nắm bắt được tại từng thời điểm, nếu lấy một con số đăng ký tại thời điểm đầu năm để hạn chế và bó buộc hoạt động vốn dĩ phụ thuộc phần lớn vào yếu tố dễ biến động như thị trường sẽ gây bất lợi lớn cho doanh nghiệp.

-         Về yêu cầu “thương nhân Việt Nam chỉ được giao dịch … hợp đồng trong phạm vi được Bộ Công Thương cho phép” là can thiệp khá sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hợp đồng là thỏa thuận giữa các bên, các nội dung của hợp đồng không hoàn toàn phụ thuộc vào thương nhân Việt Nam, do đó việc giới hạn các phạm vi trong hợp đồng mà thương nhân Việt Nam được phép giao dịch sẽ là không khả thi và là gây bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam.

Tóm lại, từ những phân tích ở trên cho thấy, các điều kiện áp đặt đối với thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài là chưa hợp lý, khó có tính khả thi, can thiệp quá sâu vào hoạt động của doanh nghiệp và chưa rõ về mục tiêu quản lý. Hơn nữa, thực tế trong thời gian qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài và chưa phát sinh về những vấn đề bất ổn của thị trường trong nước liên quan đến các hoạt động mua bán đó. Do đó, đề nghị Ban soạn thảo giữ quy định về điều kiện đối với thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngòai tại Dự thảo (bản tháng 6/2013)[1].

Nếu có những quan ngại về vấn đề liên quan đến tài chính, quản lý ngoại hối thì Ban soạn thảo có thể quy định về vấn đề thanh toán đối với phương thức mua bán hàng hóa này.

3.      Về tạm ngừng, đình chỉ giao dịch (Điều 9)

Dự thảo quy định, “Trường hợp phát hiện có bất thường trong hoạt động giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài và mất ổn định trên thị trường trong nước, Bộ trưởng Bộ Công Thương có thể ra quyết định tạm ngưng, đình chỉ và thực hiện việc thanh tra, kiểm tra hoạt động của thương nhân”.

Quy định này có thể gây khó khăn cho các doanh nghiệp, bởi vì, khi doanh nghiệp Việt Nam tham gia giao dịch mua bán qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài sẽ phải chịu sự chi phối của pháp luật nước đó cũng như tuân thủ điều lệ của Sở Giao dịch. Nếu từ phía Việt Nam, cơ quan nhà nước có thẩm quyền yêu cầu doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động giao dịch hàng hóa qua Sở Giao dịch ở nước ngoài sẽ có thể ảnh hưởng đến doanh nghiệp Việt Nam từ việc phải tạm ngừng này ở các phương diện: các doanh nghiệp này có thể sẽ vi phạm nghĩa vụ đối với các Sở Giao dịch hàng hóa; có thể vi phạm các nghĩa vụ với đối tác đã được xác lập trước đó; có thể vi phạm pháp luật của nước sở tại; mất uy tín đối với các đối tác; …

Đối với thị trường trong nước, nhà nước có những công cụ quản lý thích hợp để đảm bảo sự ổn định và phát triển của thị trường (ví dụ: công vụ về thuế; các hàng rào kỹ thuật, …) và những biện pháp quản lý này thường không can thiệp trực tiếp vào các mối quan hệ được xác lập giữa các bên trong các giao dịch. Mua bán qua Sở Giao dịch hàng hóa tuy là một phương thức mới mẻ ở Việt Nam, nhưng xét về bản chất cũng là hoạt động mua bán hàng hóa được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa các bên, vì vậy việc Nhà nước can thiệp buộc một bên phải tạm ngừng hoạt động là không thích hợp.

Do đó, để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc, xem xét bỏ quy định tại Điều 9 và xem xét áp dụng các công cụ quản lý khác để kiểm soát thị trường trong nước.

4.      Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép (Điều 10)

Theo phân tích ở mục 1, việc áp đặt các điều kiện quy định tại Điều 4 là không cần thiết, do đó đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại Điều 10.

Các góp ý dưới đây chỉ trên phương diện là tính minh bạch của quy định:

-         Xét các điều kiện quy định tại Điều 4 thì các tài liệu trong Hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép là không tương thích và chưa thể hiện được hình thức của các điều kiện cấp phép, chẳng hạn: các tài liệu như “Bản sao có chứng thực bằng cấp kèm bản thông tin cá nhân có chứng thực của nhân viên liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài”, “Bản báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (đã được kiểm toán) của doanh nghiệp trong 02 năm gần nhất, trong đó nêu rõ chi tiêu sản lượng sản xuất kinh doanh đối với các mặt hàng đăng ký giao dịch qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài”, “Bản sao có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền Hợp đồng mua bán hàng hóa của doanh nghiệp trong vòng ít nhất 02 năm cho tới thời điểm nộp hồ sơ”; “Bản giải trình về danh mục hàng hóa đăng ký giao dịch qua Sở Giao dịch hàng hóa tại nước ngoài – nếu là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai có tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngòai vượt quá 49%” không thể hiện bất kì điều kiện nào quy định tại Điều 4, vì vậy, việc yêu cầu các tài liệu này được xem như áp đặt thêm điều kiện đối với thương nhân thực hiện mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài.

-         Về yêu cầu bằng cấp của nhân viên liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài: Dự thảo quy định phải có “bằng cấp kèm bản thông tin cá nhân”. Quy định này là chưa rõ ràng: không rõ bằng cấp ở đây là gì (bằng tốt nghiệp đại học, cao đẳng hay là chứng chỉ đào tạo ngành nghề nào đó?)? Của ngành nghề nào? Tiêu chí nào để xem xét sự phù hợp của tài liệu này? Như thế nào được cho là “liên quan trực tiếp đến nghiệp vụ mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài” (người thực hiện trực tiếp hay là người quản lý bộ phận nghiệp vụ này)?

-         Về yêu cầu báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong 2 năm gần nhất, trong đó nêu rõ chỉ tiêu sản lượng sản xuất kinh doanh đối với mặt hàng đăng ký giao dịch qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài là không rõ về mục tiêu quản lý. Nếu tài liệu này nhằm mục đích chứng minh năng lực tham gia các giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài là không cần thiết, bởi đây là nhu cầu tự thân của mỗi doanh nghiệp phải đánh giá được năng lực của mình trước khi tham gia qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài hơn nữa, các doanh nghiệp cũng được sàng lọc và tuân theo quy chế của các Sở Giao dịch và pháp luật của nước sở tại.

-         Góp ý tương tự đối với yêu cầu nộp “Hợp đồng mua bán hàng hóa của doanh nghiệp trong vòng ít nhất 02 năm”, hơn nữa quy định này cũng gây khó khăn cho doanh nghiệp về mặt thủ tục khi phải nộp quá nhiều tài liệu (đối với một số doanh nghiệp, số lượng hợp đồng mà doanh nghiệp giao dịch trong 2 năm có thể là rất nhiều, nếu bắt buộc phải cung cấp tất cả hợp đồng thì tài liệu trong hồ sơ cấp phép sẽ rất lớn). Mặt khác, quy định này cũng chưa hợp lý ở điểm, có những hợp đồng không liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa các loại mặt hàng mà thương nhân thực hiện giao dịch qua sàn thì nguồn thông tin này là ít ý nghĩa.

-         Đối với yêu cầu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ góp vốn của nhà đầu tư nước ngòai vượt quá 49% phải có giải trình về danh mục hàng hóa đăng ký giao dịch qua Sở Giao dịch hàng hóa tại nước ngoài (khoản 8 Điều 10) là chưa rõ ràng, không rõ tiêu chí nào để xem xét và chấp nhận hay từ chối bản giải trình này?

Hơn nữa quy định này là không thống nhất với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4, bởi vì theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 4 thì, “đối với thương nhân Việt Nam là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 49%”, điều này có nghĩa là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mà tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trên 49% thì không được phép giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài, trong khi đó theo quy định tại khoản 8 Điều 10 thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong đó tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài trên 49% được phép tham gia qua phương thức này nhưng phải giải trình.

5.      Hồ sơ, trình tự, thủ tục sửa đổi, bổ sung, cấp lại Giấy phép (Điều 12, 13)

-         Về sửa đổi, bổ sung giấy phép (Điều 12): Dự thảo không có quy định trường hợp nào thì thương nhân được phép sửa đổi, bổ sung Giấy phép, điều này có thể gây khăn trên thực tế triển khai và là dư địa cho tình trạng nhũng nhiễu từ cán bộ thực hiện thủ tục hành chính. Vì vậy, để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ các trường hợp này.

-         Về cấp lại giấy phép (Điều 13): Dự thảo quy định, thương nhân phải nộp hồ sơ đề nghị Bộ Công Thương cấp lại Giấy phép trong trường hợp Giấy phép bị mất, bị rách hoặc bị tiêu hủy dưới hình thức khác. Hồ sơ đề nghị khá đơn giản, tuy nhiên, đối với trường hợp này, thương nhân vẫn có thể rơi vào trường hợp không được cấp lại và không rõ nguyên nhân (Dự thảo không hề có quy định rõ ràng về những trường hợp nào thì không được cấp lại khi bị mất, rách, bị cháy, bị tiêu hủy). Điều này vừa thiếu minh bạch vừa không hợp lý. Thật khó để lý giải, tại sao trường hợp này thương nhân lại có thể bị từ chối cấp, bởi vì, bị mất, bị rách, bị cháy, bị tiêu hủy là những trường hợp nằm ngoài dự liệu của thương nhân, thủ tục này mang ý nghĩa là xin cấp lại giấy phép mà trước đây cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp vì những lý do khách quan, hợp pháp, không phát sinh điều kiện mới.

Do vậy, đề nghị Ban soạn thảo quy định, đối với trường hợp cấp lại Giấy phép do bị mất, bị cháy, bị rách, bị tiêu hủy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền không được quyền từ chối cấp lại.

6.      Một số góp ý khác

-         Giải thích từ ngữ: khoản 1 Điều 2 Dự thảo quy định “thương nhân Việt Nam là tổ chức kinh tế được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam” quy định này là chưa thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại “thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định này để đảm bảo tính thống nhất.

-         Thu hồi giấy phép (Điều 14): Khoản 2 Điều 14 quy định một trong các trường hợp thu hồi giấy phép là “Vi phạm pháp luật trong hoạt động giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài”. Quy định này là chưa rõ ràng và hợp lý ở điểm: lại vi phạm nào thì doanh nghiệp sẽ bị thu hồi giấy phép? Nếu tất cả các loại vi phạm pháp luật, kể cả các vi phạm không liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài cũng bị thu hồi là chưa hợp lý và không phản ánh đúng bản chất của chế tài được áp dụng trong lĩnh vực này. Đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể loại vi phạm pháp luật nào thì doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép.

-         Đề nghị Ban soạn thảo quy định theo hướng có thể định lượng được các trường hợp được cho là “bất thường trong hoạt động kinh doanh của thương nhân” trong quy định về nghĩa vụ báo cáo đột xuất tại Điều 16 Dự thảo.

-         Về hiệu lực của Giấy phép: Dự thảo không có quy định về hiệu lực của Giấy phép. Tuy nhiên trong Mẫu Giấy phép tại Phụ lục số 02 thì lại có nội dung “Giấy phép này có hiệu lực đến hết ngày … tháng … năm 20…”. Để đảm bảo tính minh bạch và thống nhất trong toàn văn bản, đề nghị Ban soạn thảo hoặc là quy định về việc thời hạn của Giấy phép cũng như trình tự thủ tục mà doanh nghiệp muốn gia hạn Giấy phép hoặc là bỏ nội dung trên ở Mẫu Giấy phép tại Phụ lục số 02.

-         Điều khoản chuyển tiếp: Dự thảo chưa có quy định chuyển tiếp đối với các trường hợp giao dịch mua bán hàng hóa tại Sở giao dịch hàng hóa ở nước ngoài trước ngày thông tư có hiệu lực thi hành, do đó đề nghị Ban soạn thảo xem xét, bổ sung quy định.

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Thông tư quy định lộ trình, điều kiện đối với thương nhân Việt Nam tham gia giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài. Rất mong cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Ngoài ra gửi kèm theo phụ lục một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.



[1] Điều 8. Điều kiện đối với thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài (nhà đầu tư)

Thương nhân Việt Nam thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa qua Sở giao dịch ở nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện sau:

1. Là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

2. Có lĩnh vực hoạt động, kinh doanh liên quan đến mặt hàng mà doanh nghiệp thực hiện giao dịch qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài.

3. Có quy trình và phương thức giao dịch phù hợp với hoạt động mua bán hàng hóa qua Sở Giao dịch hàng hóa ở nước ngoài.

Các văn bản liên quan