VCCI góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Đầu tư

Thứ Hai 10:08 22-06-2015

Kính gửi: Vụ Pháp chế - Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Trả lời Công văn số 1758/BKHĐT-PC của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Đầu tư (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở góp ý của các doanh nghiệp, hiệp hội, có một số ý kiến như sau:

1.      Về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh (Điều 7)

Điều 7 Dự thảo quy định về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên một số quy định cụ thể lại chưa thật rõ ràng. Cụ thể:

-         Khoản 1: Khoản này trong Dự thảo hiện được nêu như là một “tuyên bố/miêu tả” mà không phải là quy định pháp luật (không mang tính quy phạm), bởi ở đây không làm rõ được ý nghĩa/hệ quả.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo sửa lại khoản này theo hướng làm rõ tính chất và ý nghĩa pháp lý của quy định, ví dụ

+ “Ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh phải được liệt kê tại Điều 6 và các Phụ lục 1, 2 và 3 Luật Đầu tư”; hoặc

+ “Ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh chỉ bao gồm các ngành nghề được liệt kê tại Điều 6 và các Phụ lục 1, 2 và 3 Luật Đầu tư”.

-         Khoản 2: Khoản này đề cập tới các trường hợp được xem là ngoại lệ đối với các sản phẩm cấm đầu tư, kinh doanh tại Phụ lục 1, 2, 3 Luật Đầu tư (ví dụ dùng trong điều tra tội phạm, bảo vệ quốc phòng…).

Về logic thì điều này là hợp lý (theo nghĩa các sản phẩm này chỉ bị cấm sản xuất, kinh doanh chứ vẫn có thể được phép sử dụng cho các hoạt động khác cần thiết và được kiểm soát bởi các văn bản khác).

Tuy nhiên, về mặt pháp lý thì có lẽ quy định này cần được xem xét lại bởi:

+ Luật Đầu tư và Dự thảo này chỉ bao trùm và điều chỉnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh (đầu tư, kinh doanh), các hoạt động như điều tra tội phạm, bảo vệ quốc phòng, an ninh không thuộc phạm vi của này, và vì vậy không phải quy định ở đây;

+ Đối với các hoạt động khác như “phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế”: Các hoạt động này có thể được thực hiện bởi các chủ thể kinh doanh, nhằm mục tiêu/phục vụ hoạt động kinh doanh nhưng cũng có thể là các hoạt động nghiên cứu thuần túy. Vì vậy, để các hoạt động này thuộc phạm vi của Dự thảo, cần quy định rõ về mục tiêu kinh doanh của hoạt động.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc:

+ Bỏ các quy định về “điều tra tội phạm, bảo vệ an ninh, quốc phòng”

+ Bổ sung thêm quy định “phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, y tế nhằm mục đích kinh doanh; sản xuất dược”

2.      Về ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện (Chương II)

2.1.           Về hình thức điều kiện đầu tư, kinh doanh (Điều 8)

Điều 8 Dự thảo quy định về hình thức/các loại điều kiện kinh doanh đối với các ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện. Về cơ bản các quy định ở Điều này đã đạt được được mục tiêu (đặc biệt là bao trùm được các hình thức/loại điều kiện kinh doanh) nhưng vẫn còn một số điểm cần điều chỉnh sau:

-         Khoản 1 Điều 8: Tương tự như khoản 1 Điều 7, Khoản này trong Dự thảo hiện được nêu như là một “tuyên bố/miêu tả” mà không phải là quy định pháp luật (không mang tính quy phạm).

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo sửa lại theo hướng làm rõ tính chất của quy định, ví dụ

+ “Ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện phải được liệt kê tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư”; hoặc

+ “Ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện chỉ bao gồm các ngành nghề được liệt kê tại Phụ lục 4 Luật Đầu tư”.

-         Khoản 5 Điều 8: Khoản này thực chất là chỉ gắn với các quy định của khoản 4 Điều 8. Nếu đặt riêng thành một khoản như thế này thì có thể gây ra hiểu nhầm rằng chỉ nhà đầu tư nước ngoài nếu kinh doanh trong nhiều ngành nghề thì phải đáp ứng đủ các điều kiện của tất cả các ngành nghề, còn nhà đầu tư trong nước thì không phải như vậy.

Để tránh hiểu nhầm và đảm bảo đúng logic của quy định, đề nghị Ban soạn thảo bỏ tên khoản, chỉ là đoạn quy định tiếp theo của khoản 4 mà thôi.

2.2.           Công bố điều kiện đầu tư kinh doanh (Điều 12):

-         Về thủ tục công bố các thông tin về điều kiện đầu tư kinh doanh trên Cổng thông tin:

Điều 12 quy định về trình tự để đăng các điều kiện đầu tư kinh doanh trên Cổng thông tin (từ thông báo của Cơ quan có thẩm quyền quản lý các điều kiện kinh doanh[1] đến việc đăng tải của Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Nếu Cổng thông tin này đã có sẵn, và việc công bố này chỉ áp dụng đối với các trường hợp điều kiện đầu tư, kinh doanh mới (hoặc được điều chỉnh, bổ sung, thay đổi) thì về cơ bản thì trình tự này là thích hợp.

Tuy nhiên trong bối cảnh cần phải thiết lập từ đầu phần Cổng thông tin về điều kiện kinh doanh thì quy trình này có lẽ là chưa đủ. Ít nhất cần có quy định về việc công khai điều kiện đầu tư kinh doanh của 267 ngành nghề có điều kiện nêu trong Luật Đầu tư đã (ví dụ với 267 ngành nghề này thì không cần phải Bộ ngành đề nghị, phải có quy định cụ thể thời hạn nào các Bộ bắt buộc phải gửi thông tin về 267 ngành nghề này, thời hạn nào Bộ Kế hoạch đầu tư bắt buộc phải đăng thông tin về 267 ngành nghề này…) – đây là hướng dẫn rất quan trọng bởi hiện dường như không phải Bộ, ngành nào cũng ý thức được đầy đủ về những thay đổi cơ bản trong Luật Đầu tư về ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc bổ sung quy định này, hoặc là trực tiếp ở Điều này, hoặc là ở Điều khoản về giai đoạn chuyển tiếp, thực thi.

-         Về hiệu lực của các nội dung điều kiện đầu tư kinh doanh đăng tải trên Cổng thông tin:

Điều 12 Dự thảo quy định về việc công bố điều kiện đầu tư kinh doanh trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp trong đó có đưa ra các nội dung về điều kiện đầu tư kinh doanh được công bố. Điều này được hiểu là Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp là nơi tập hợp đầy đủ, thống nhất các điều kiện đầu tư kinh doanh hiện có trong các văn bản pháp luật hiện hành, doanh nghiệp có thể thuận lợi để nhận biết thông tin về điều kiện đầu tư kinh doanh tại nguồn này. Việc thống nhất thông tin về điều kiện đầu tư kinh doanh là hợp lý và tiến bộ, tạo sự minh bạch về thông tin cho các doanh nghiệp.

Tuy nhiên, quy định tại khoản 5 Điều 12 Dự thảo “trường hợp nội dung đăng tải về điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định tại khoản 2 Điều này khác với quy định tương ứng của Luật Đầu tư, các luật, pháp lệnh, nghị định của Chính phủ thì áp dụng quy định của các văn bản quy phạm pháp luật đó” sẽ khiến cho việc đăng tải, công bố thông tin về điều kiện đầu tư kinh doanh tại Công thông tin này trở nên ít ý nghĩa, bởi vì sẽ áp dụng các quy định tại các văn bản pháp luật khác tương ứng nếu quy định đó khác với các nội dung trên Công tin, đồng nghĩa với việc các thông tin về điều kiện đầu tư kinh doanh trên Công thông tin chưa chắc đã chính xác và được áp dụng, vì còn phải xem xét ở các văn bản pháp luật khác có quy định quy định như thế nào. Hơn nữa, cách quy định như vậy cũng làm giảm ý nghĩa và phương hại tới nguyên tắc đã được khẳng định trong Điều 7.5 Luật Đầu tư, theo đó “Ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và điều kiện đầu tư kinh doanh đối với ngành, nghề đó phải được đăng tải trên Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc gia”

Do vậy, để đảm bảo thống nhất về cung cấp thông tin, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tra cứu, nhận biết về điều kiện đầu tư kinh doanh, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định khoản 5 theo hướng, nếu có sự khác nhau giữa nội dung đăng tải về điều kiện đầu tư kinh doanh giữa Cổng thông tin với các văn bản pháp luật khác thì áp dụng quy định tại Cổng thông tin này.

2.3.           Quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh giữa Luật Đầu tư và các văn bản pháp luật khác

-         Về thời điểm thực hiện thủ tục sửa đổi bổ sung Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện của Luật Đầu tư:

Điều 13 Dự thảo quy định căn cứ vào các đề nghị của Bộ, các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc kinh doanh có điều kiện sẽ được bổ sung vào Luật Đầu tư, và các đề xuất này sẽ được phân tích, đánh giá dựa vào các tiêu chí quy định tại khoản 1, 3 và 4 Điều 7 Luật Đầu tư.

Tuy nhiên, Dự thảo hiện chưa làm rõ về thời điểm thực hiện thủ tục sửa đổi, bổ sung quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện: Cụ thể là thủ tục này được thực hiện trước hay sau khi đã có/thông qua văn bản pháp luật chuyên ngành sửa đổi, bổ sung ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đó? (Chú ý: Cần làm rõ tại Điều 13 về việc thủ tục tại Điều này là chỉ áp dụng đối với trường hợp văn bản pháp luật chuyên ngành có thay đổi về ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh hoặc ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện làm thay đổi nội dung các Danh mục tương ứng trong Luật Đầu tư – Thủ tục tại Điều này không áp dụng đối với các trường hợp sửa đổi, bổ sung về nội dung các điều kiện kinh doanh của các ngành nghề đã có trong Danh mục của Luật Đầu tư).

+ Nếu là thực hiện sau khi các văn bản pháp luật chuyên ngành về điều kiện kinh doanh đã được thông qua (các văn bản này sẽ chỉ chờ Luật Đầu tư sửa để có hiệu lực) thì việc giải trình về các nội dung như sự cần thiết, hợp lý… (như khoản 2 Điều 13) vào thời điểm đó là không còn ý nghĩa;

+ Nếu là thực hiện trước khi thông qua các văn bản pháp luật chuyên ngành thì đúng logic hơn (bởi theo quy định của Luật Đầu tư thì ngành nghề kinh doanh có điều kiện bắt buộc phải nêu trong Phụ lục của Luật Đầu tư; hơn nữa chỉ khi các văn bản này chưa ban hành thì việc giải trình về căn cứ về sự cần thiết, tính hợp lý… của điều kiện kinh doanh trong các văn bản đó mới có ý nghĩa).

Tuy nhiên cũng sẽ có một số rủi ro khác, ví dụ: (i) nếu Luật Đầu tư đã được sửa tương ứng nhưng văn bản pháp luật chuyên ngành liên quan được thông qua sau đó lại có quy định khác về ngành nghề kinh doanh có điều kiện (ví dụ bỏ đi hoặc thay đổi) so với Luật Đầu tư đã sửa thì phải xử lý thế nào? (ii) nếu văn bản pháp luật chuyên ngành đó là văn bản luật thì về nguyên tắc (theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật) thì Luật được ban hành sau Luật Đầu tư 2014 và có hiệu lực thay thế, do đó không cần đợi Luật Đầu tư sửa Danh mục thì quy định về điều kiện kinh doanh trong Luật đó đã tự động có hiệu lực rồi.

Vì vậy đề nghị Ban soạn thảo:

+ làm rõ thời điểm thực hiện thủ tục tại Điều 13, có thể cân nhắc theo hướng Dự án sửa đổi Luật Đầu tư (sửa đổi Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện) phải được xem xét thông qua đồng thời (cùng thời điểm) với văn bản có chứa điều kiện kinh doanh liên quan nếu văn bản đó là cấp luật; trường hợp văn bản cấp dưới luật thì văn bản đó sẽ được ký ban hành khi Dự án sửa đổi Luật Đầu tư (sửa đổi Danh mục) được thông qua.

+ gắn quá trình xây dựng các văn bản pháp luật chuyên ngành có chứa điều kiện kinh doanh này với thủ tục kiểm soát điều kiện kinh doanh (như nêu tại ý kiến bình luận với Điều 14 dưới đây)

-         Về thủ tục/quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật có chứa điều kiện đầu tư kinh doanh (Điều 14)

Theo quy định tại Điều 14 Dự thảo thì việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung điều kiện đầu tư kinh doanh trong các văn bản pháp luật chuyên ngành được tiến hành soạn thảo bình thường, chỉ bổ sung thêm giải trình (trong Tờ trình) về các nội dung liên quan tới điều kiện đầu tư kinh doanh, mà không có mối liên hệ gì với quy định tại Luật Đầu tư cũng như Bộ Kế hoạch đầu tư, cơ quan được trao thẩm quyền về kiểm soát các điều kiện kinh doanh nói chung.

Cách tiếp cận này là chưa hợp lý, ít nhất ở các điểm sau:

+ Việc bổ sung thêm phần giải trình liên quan tới điều kiện kinh doanh trong Tờ trình sẽ rất ít nghĩa nếu cơ quan thẩm định, thẩm tra Tờ trình và Dự thảo văn bản đó không rà soát sâu về các điều kiện đầu tư kinh doanh trong Dự thảo; trong khi đây lại chính là giai đoạn quan trọng để cơ quan chuyên môn (Bộ Kế hoạch và đầu tư) tham gia và có ý kiến về vấn đề này qua đó thực hiện chức năng là “bộ lọc” giúp các Cơ quan thẩm định thẩm tra kiểm soát sự xuất hiện của các loại điều kiện kinh doanh mới, ngăn chặn tình trạng để lọt lưới các điều kiện kinh doanh bất hợp lý trong các lĩnh vực chuyên ngành;

+ Chưa có bất cứ sự gắn kết nào giữa quy trình ban hành văn bản chứa điều kiện kinh doanh này với quy trình sửa đổi Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong Luật Đầu tư (nếu có) cũng như quy trình sửa đổi/cập nhật thông tin về điều kiện kinh doanh tại Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp; trong khi nếu gắn kết được thì Cơ quan quản lý nhà nước về điều kiện kinh doanh nói chung (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) sẽ không những có thể gác cửa cho các điều kiện kinh doanh mà còn đồng thời cập nhật được các điều kiện kinh doanh mới (một cách tự động, không phải chờ tới đề nghị của các Bộ, ngành khác mới thực hiện công bố trên Cổng thông tin như quy định tại Khoản 1 Điều 12)

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc điều chỉnh quy trình này theo hướng:

+ Thiết lập thủ tục riêng về kiếm soát điều kiện đầu tư kinh doanh trong quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật có chứa quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh theo đó (i) mọi dự thảo văn bản có chứa điều kiện đầu tư kinh doanh phải được gửi tới Cơ quan kiểm soát điều kiện đầu tư kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) để Cơ quan này cho ý kiến (hồ sơ gửi có thể bao gồm, nhưng không giới hạn ở, các nội dung giải trình như nêu tại Điều 14.2 Dự thảo hiện nay; thời điểm gửi có thể là ngay giai đoạn hình thành chính sách để tiết kiệm thời gian, công sức của đơn vị soạn thảo) (ii) Có quy trình cụ thể để Cơ quan kiểm soát thực hiện việc kiểm soát và phản hồi kết quả kiểm soát (tiêu chí kiểm soát, thời hạn trả lời, hệ quả pháp lý của ý kiến trả lời…); (iii) Hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định, thẩm tra hay ban hành văn bản pháp luật liên quan phải có ý kiến kiểm soát về điều kiện kinh doanh của Cơ quan kiểm soát – có thể tham khảo thêm Nghị định 63/2010/NĐ-CP về quy trình kiểm soát thủ tục hành chính;

+ Nếu có quy trình này, sau khi văn bản được ban hành, Bộ Kế hoạch và Đầu tư có thể tự động cập nhật các nội dung về điều kiện kinh doanh mới tại Cổng thông tin mà không cần một số thủ tục tại Điều 12 (bởi Bộ đã được biết, kiểm soát và theo dõi các điều kiện kinh doanh này từ đầu). Do đó nếu thực hiện theo đề xuất này thì đề nghị sửa Điều 12 tương ứng.

3.      Một số quy định tại Dự thảo về thủ tục hành chính chưa rõ ràng và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp

-         Về thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư:

Mục 3 Chương IV Dự thảo quy định khá cụ thể về trình tự, thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư như: các trường hợp phải điều chỉnh, hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền cũng như thời gian giải quyết.

Tuy nhiên, Dự thảo lại không quy định về các tiêu chí để cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho ý kiến thẩm định, xét duyệt và cho phép điều chỉnh hay không điều chỉnh chủ trương đầu tư. Đề nghị Ban soạn thảo quy định rõ về vấn đề này để đảm bảo thuận lợi khi thực hiện;

-         Về thủ tục thực hiện dự án đầu tư và hoạt động đầu tư kinh doanh của tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (Điều 40):

Điểm b Khoản 2 Điều 40 Dự thảo quy định, trong trường hợp có dự án đầu tư mới ngoài dự án đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 23 Luật Đầu tư (tức là các tổ chức kinh tế được xác định là có vốn đầu tư nước ngoài) thì thực hiện thủ tục thông báo đầu tư

Quy định này chưa thống nhất với Luật Đầu tư ở bởi theo quy định tại khoản 2 Điều 23 Luật Đầu tư, tổ chức nước ngoài không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b, c khoản 1 Điều 23 thì thực hiện điều kiện và thủ tục đầu tư theo quy định đối với nhà đầu tư trong nước. Và nhà đầu tư trong nước thì không phải thực hiện các thủ tục liên quan đến việc thực hiện dự án đầu tư. Như vậy, theo Luật Đầu tư, các trường hợp này không phải thực hiện thủ tục thông báo đầu tư.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo bỏ quy định tại điểm b khoản 2 Điều 40.

-         Về tạm ngừng thực hiện dự án đầu tư (Điều 47):

Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Luật Đầu tư năm thì “Nhà đầu tư ngừng hoạt động của dự án đầu tư phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký đầu tư” – như vậy đây chỉ là thủ tục thông báo tự động, để Nhà nước biết mà không cần phản hồi nào từ phía cơ quan đăng ký đầu tư cả

Tuy nhiên, Điều 47 Dự thảo lại đang thiết kế thủ tục thông báo này tương tự như thủ tục cấp phép, đó là: nhà đầu tư gửi hồ sơ tới cơ quan đăng ký đầu tư và trong 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ, cơ quan đăng ký đầu tư sẽ “quyết định chấp thuận hoặc không chấp thuận việc tạm ngừng”. qua đó biến thủ tục thông báo này thành thủ tục xét duyệt, chấp thuận và do đó mâu thuẫn với Điều 47.1 Luật Đầu tư.

Mặt khác, ngay cả trường hợp là thủ tục cấp phép, thì Dự thảo cũng chưa quy định rõ ràng về các tiêu chí, cơ sở để cơ quan đăng ký đầu tư chấp thuận hay không chấp thuận cho nhà đầu tư tạm ngừng hoạt động của dự án đầu tư?

Để đảm bảo thống nhất với Luật Đầu tư, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi thủ tục tạm ngừng thực hiện dự án đầu tư về đúng bản chất là thủ tục thông báo, tức là nhà đầu tư chỉ cung cấp thông tin cho cơ quan đăng ký đầu tư về việc tạm ngừng thực hiện dự án đầu tư và không phải chờ sự chấp thuận từ cơ quan này.

-         Về mức ký quỹ đối với dự án đầu tư được giao đất, cho thuê đất (Điều 44)

+ Khoản 3 quy định về mức ký quỹ 2-3% đối với phần vốn đến 300 tỷ đồng, và 1-2% đối với phần vốn trên 300 tỷ đồng. Như vậy, biên độ dao động về mức ký quỹ cao nhất và thấp nhấp có thể là 50% (đối với với trường hợp mức ký quỹ cho phần vốn đến 300 tỷ) và 100% (đối với trường hợp trên 300 tỷ đồng) – Đây là biên độ dao động rất lớn và quyền quyết định mức ký quỹ cụ thể trong biên độ này thuộc về cơ quan đăng ký đầu tư, trong khi tiêu chí để quyết định thì rất mơ hồ (“căn cứ vào quy mô, tính chất và tiến độ thực hiện dự án”). Điều này tạo ra nguy cơ nhũng nhiễu từ phía cơ quan đăng ký đầu tư và hối lộ từ nhà đầu tư để có được mức ký quỹ thấp nhất.

Vì vậy, đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại biên độ dao động giữa mức ký quỹ cao nhất và thấp nhất (xuống dưới 30%) để hạn chế nguy cơ nói trên.

+ Khoản 6: Tại sao nguyên nhân bất khả kháng trong điểm a lại phải “theo quy định của pháp luật” còn tại khoản b thì không?

-         Về thủ tục báo cáo định kỳ của tổ chức kinh tế thực hiện dự án đầu tư (Điều 61)

Như đã đề cập trong quá trình soạn thảo Luật Đầu tư, các thủ tục về báo cáo hoạt động đầu tư trong Luật Đầu tư cần đảm bảo tính hữu ích của thông tin trong báo cáo, qua đó tiết kiệm chi phí thời gian, nguồn lực cho nhà đầu tư. Luật Đầu tư đã được thông qua với quy định tại Điều 71.2a về chế độ báo cáo định kỳ của nhà đầu tư vẫn tương đối rườm rà, chưa đáp ứng được yêu cầu nói trên.

Việc xây dựng điều khoản về báo cáo trong Dự thảo này là một cơ hội để có thể khắc phục hạn chế ở Luật Đầu tư theo hướng hướng dẫn áp dụng theo cách đơn giản nhất mà vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc tại Luật Đầu tư. Điều 61 Dự thảo về vấn đề này dường như đã chưa làm được điều này.

Về mặt nguyên tắc, do Luật Đầu tư chỉ quy định về chế độ báo cáo định kỳ hàng tháng, quý, năm và các tiêu chí báo cáo chung (mà không nêu báo cáo tháng, quý, năm phải có gì) nên cách lựa chọn tốt nhất là quy định nội dung báo cáo tháng, quý chỉ bao gồm những vấn đề đơn giản nhất, các nội dung còn lại chỉ phải nêu trong báo cáo năm.

Vì vậy, đề nghị Ban soan thảo điều chỉnh lại các quy định tại Điều 61 Dự thảo theo hướng:

+ Báo cáo tháng chỉ bao gồm tình hình góp vốn điều lệ và vốn đầu tư (không phải chia theo nguồn vốn và khoản mục đầu tư)

+ Báo cáo quý chỉ bao gồm chỉ tiêu của báo cáo tháng và chỉ tiêu doanh thu, số lượng lao động – và tháng nào có báo cáo quý thì không phải lập báo cáo tháng;

+ Báo cáo năm sẽ bao gồm tất cả các chỉ tiêu như nêu trong Điều 71.2 (đề nghị không thêm chỉ tiêu nào so với Điều 71.2, ví dụ Điều 71.2 không quy định phải báo cáo chỉ tiêu nguồn gốc công nghệ sử dụng, tình hình sử dụng đất, mặt nước…).

4.      Về một số quy định khác

Dự thảo còn chứa nhiều quy định chưa thật chính xác và vì vậy cần được điều chỉnh lại. Ví dụ:

-         Điều 3.2: Nếu đã có quy định tại khoản 1 Điều 3 về việc tuân thủ hoàn toàn pháp luật về quản lý nợ công cho các trường hợp về bảo lãnh Chính phủ thì những nội dung như tại khoản 2 cũng phải theo pháp luật về quản lý nợ công. Vì vậy, đề nghị bỏ khoản 2

-         Điều 4 về bảo đảm đầu tư:

+ Khoản 1 quy định ưu đãi đầu tư chỉ bao gồm các loại ưu đãi tại Điều 15.1 Luật Đầu tư và các ưu đãi quy định tại Giấy liên quan tới việc đầu tư, kinh doanh. Khoản 2 quy định trong trường hợp không có các Giấy tờ tại khoản 1 nhà đầu tư được bảo đảm ưu đãi đầu tư quy định tại các giấy tờ khác do cơ quan có thẩm quyền ban hành có ghi nội dung ưu đãi đầu tư.

Trong khi đó Điều 13 Luật Đầu tư quy định bảo đảm ưu đãi đầu tư cho mọi ưu đãi đầu tư (không giới hạn ưu đãi nào) mà pháp luật ghi nhận cho nhà đầu tư (tức là bao gồm cả các ưu đãi mà được quy định trong văn bản pháp luật nhưng không được nêu trong bất kỳ giấy tờ hành chính nào của cơ quan quản lý).

Vì vậy, quy định tại Điều 4 dường như đang giới hạn các loại ưu đãi đầu tư được bảo đảm từ Nhà nước. Đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh lại để đảm bảo tuân thủ đúng tinh thần tại Điều 13 Luật Đầu tư.

-         Điều 5: Hồ sơ dự án đầu tư có văn bản và tài liệu bằng tiếng nước ngoài thì ”nhà đầu tư phải nộp bản dịch ra tiếng Việt hợp lệ của văn bản và tài liệu bằng tiếng nước ngoài” (chứ không phải là bản sao hợp lệ)

-         Điều 11.2: Nên quy định lại cho chính xác là ”Ngoài những nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, điều kiện đầu tư kinh doanh dưới các hình thức quy định tại các điểm từ a đến e khoản 2 Điều 8...”

-         Điều 17: Ưu đãi đầu tư tại Điều này thực chất cũng là một đối tượng ưu đãi đầu tư và vì vậy cần được nêu trong Điều 16.

-         Điều 25.3: Tại sao quy định của khoản này không được thiết kế tương tự như cách thiết kế tại khoản 2 Điều này?

-         Điều 46.2b: Ban quản lý trong quy định này là Cơ quan nào?

....

Đề nghị Ban soạn thảo rà soát lại toàn bộ các quy định của Dự thảo để đảm bảo tính chính xác và thống nhất giữa các quy định.

5.      Về ngành, nghề đầu tư kinh doanh trước thời điểm Luật đầu tư có hiệu lực thi hành

Khoản 1 Điều 78 Dự thảo quy định “Điều kiện đầu tư kinh doanh do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp ban hành hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016” là chưa chính xác về thời điểm hết hiệu lực của các văn bản của cơ quan này, mà phải là ngày 01/7/2015, ngày phát sinh hiệu lực của Luật Đầu tư năm 2014, đề nghị Ban soạn thảo sửa đổi thời điểm này để phù hợp.

Hơn nữa, để đảm bảo tính minh bạch, đề nghị Ban soạn thảo quy định cụ thể các điều kiện đầu tư kinh doanh tại các văn bản nào của các cơ quan trên hết hiệu lực (Danh mục các văn bản này đã được dự định quy định tại Dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Doanh nghiệp, Ban soạn thảo có thể sử dụng Danh mục này để quy định tại Dự thảo).

Trên đây là một số ý kiến ban đầu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và thi hành một số điều của Luật Đầu tư. Rất mong quý Cơ quan soạn thảo cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Ngoài ra gửi kèm theo phụ lục một số góp ý cụ thể về Dự thảo mà một số doanh nghiệp gửi cho Phòng Thương mại và Công nghiệp để Quý Cơ quan tham khảo.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của Quý Cơ quan.



[1] Chú ý là  ở đây chính xác phải là các “Cơ quan quản lý điều kiện đầu tư kinh doanh” chứ không phải là “Cơ quan áp dụng điều kiện đầu tư kinh doanh” bởi Cơ quan này là chủ thể tổ chức thực hiện và quản lý toàn bộ các vấn đề liên quan tới điều kiện đầu tư kinh doanh chứ không phải chủ thể áp dụng (chủ thể áp dụng là các doanh nghiệp)

Các văn bản liên quan