TS. Lê Nết góp ý về quyền tác giả

Thứ Hai 11:07 22-05-2006
3. Các ý kiến đóng góp khác

3.1 Các qui định chung

- Định nghĩa "người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ" (Điều 3.4): thuật ngữ này được dịch thẳng từ tiếng Anh (intellectual property right holder) mà chưa được Việt hoá một cách nhuần nhuyễn. Nên chăng sửa thành "chủ thể quyền sở hữu trí tuệ."

- Nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Điều 4): nguyên tắc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nên nêu các điều kiện để quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ hơn là các nguyên tắc mang tính hiển nhiên mà bất cứ luật nào cũng có như Điều 4.1 hay 4.3. Theo tôi nên bổ sung nguyên tắc (i) các đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ có mục đích (nhằm phát triển trình độ khoa học kỹ thuật và lợi ích công cộng, xem Điều 7 TRIPs), có thời hạn và có điều kiện (phải đáp ứng các qui định về chủ thể, đối tượng), và (ii) việc sử dụng quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm quyền và lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ khác.

3.2 Quyền tác giả

- Nên bổ sung tại Điều 9 rằng "quyền tác giả chỉ bảo hộ hình thức tác phẩm, không bảo hộ nội dung tác phẩm" cho phù hợp với Điều 10 TRIPS và tránh trường hợp nhiều chủ thể dùng quyền tác giả để ngăn cấm người khác nghiên cứu ứng dụng các công trình được nêu trong tác phẩm (thí dụ, đối với tác phẩm khoa học).

- Khái niệm quan trọng nhất trong quyền tác giả là "tác phẩm" (Điều 12) không được qui định rõ. Thí dụ: khẩu hiệu "OMO - chuyên gia giặt tẩy các vết bẩn!" hay "Just do it!" của hãng quần áo giày thể thao Nike có phải là một tác phẩm không? Theo tôi nên qui định: "tác phẩm" là thành quả của sức lao động và khả năng suy xét của tác giả, truyền đạt một ý tưởng đầy đủ cho công chúng và có tính nguyên gốc. Như vậy khẩu hiệu "Just do it!" không thể coi là tác phẩm, mặc dù nó có thể được bảo hộ dưới dạng nhãn hiệu hàng hoá. Ngoài ra, Điều 12.15 và 12.16 định nghĩa "sao chép" hai lần. Đề nghị bỏ một trong hai định nghĩa trên. Sau cùng, Điều 12 không sắp xếp các từ ngữ theo thứ tự ABC nên rất khó theo dõi.

- Các loại hình tác phẩm (Điều 14) nên bổ sung truyền thông đa phương diện (multimedia) và tác phẩm hình thành trên trang web. Đây là những loại hình tác phẩm mới xuất hiện trong vài năm trở lại đây song phát triển rất nhanh, việc sao chép cũng khá dễ dàng và nhu cầu cần bảo hộ rất lớn.

- Thời hạn bảo hộ tác phẩm điện ảnh (Điều 15) nên qui định là 75 năm cho phù hợp với Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.

- Quyền nhân thân (Điều 17): vì theo luật dân sự quyền nhân thân không chuyển giao được (trừ trường hợp pháp luật có qui định khác) nên phải rất cẩn thận khi qui định một quyền là quyền nhân thân. Không nên coi quyền công bố tác phẩm (khoản 3) là quyền nhân thân mà nên coi là quyền tài sản. Nếu không, sẽ dẫn đến một nghịch lý là một phần mềm do 500 lập trình viên tạo ra (đồng tác giả) thì ai cũng có quyền công bố hay không cho người khác công bố tác phẩm, kể cả những người sau này không còn làm cho công ty sản xuất phần mềm nữa. Ngoài ra, quyền bảo vệ toàn vẹn tác phẩm cũng không được coi là quyền nhân thân (hoặc ít nhất phải là quyền nhân thân gắn với tài sản), vì nếu không thì người mua bản quyền tác phẩm hay người thuê tác giả sáng tác cũng không thể chỉnh sửa gì được đối với tác phẩm nếu không được tác giả đồng ý. Điều này cũng dẫn đến nghịch lý là theo Điều 19 thì kể cả người làm âm thanh, ánh sáng cũng có quyền không tuân theo chỉ đạo của đạo diễn và giữ ý kiến của riêng mình. Xem thêm các Điều 25, 26, 27, 28 (chủ sở hữu quyền tác giả chỉ có quyền tài sản chứ không có quyền nhân thân).

Để tránh những nghịch lý như vậy, đề nghị Luật Sở hữu trí tuệ nên có một điều khoản riêng về tác phẩm phát sinh trong hợp đồng lao động, dịch vụ, giao việc (thuật ngữ trong luật của Hoa Kỳ gọi là work for hire).

- Quyền tài sản (Điều 18) chỉ nên qui định giành cho chủ sở hữu quyền tác giả. Nếu tác giả không đồng thời là chủ sở hữu thì không có các quyền này. Tuy nhiên nên cho phép tác giả không đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả có quyền được hưởng thù lao từ việc người khác sử dụng tác phẩm.

- Quyền tài sản (Điều 18.2): nên bổ sung "phát sinh từ việc tự mình khai thác hoặc cho phép …" cho đầy đủ các quyền của chủ sở hữu quyền tác giả. Ngoài ra, quyền hưởng lợi ích từ việc cho hoặc không cho người khác công bố, sử dụng tác phẩm (theo hợp đồng sử dụng tác phẩm) cũng nên được coi là một phần của quyền tài sản. Đó cũng là lý do tại sao quyền công bố tác phẩm nên được coi là quyền tài sản.

- Ngoại lệ (Điều 22): nên bỏ "nếu tác phẩm không bị cấm sao chụp", vì đây không phải là yêu cầu của các công ước quốc tế (xem Điều 9.2 Công ước Berne và Điều 13 Thỏa ước TRIPS), cũng không phải là yêu cầu của hình thức sử dụng công bằng (fair use) theo luật Hoa Kỳ (Điều 107 Luật Bản quyền 1979). Mục đích của việc giới hạn quyền tác giả là để cân bằng lợi ích công cộng và lợi ích của chủ sở hữu quyền tác giả. Việc cân bằng đó không thể bị phá vỡ chỉ bởi yêu cầu "cấm sao chụp." Ngoài ra, hầu hết các tác phẩm hiện nay đều có ghi: cấm sao chụp dưới mọi hình thức. Như vậy không có ngoại lệ nào đối với những tác phẩm như vậy?

Ngoài ra, tại Điều 21.12 và 21.13, nên thay "trường hợp được Phần luật này cho phép" bằng "trường hợp thoả mãn các qui định tại Điều 22", vì "Phần luật này" không có qui định cụ thể về ngoại lệ của Điều 21.12 và 21.13.

- Các hình thức sử dụng tác phẩm không phải xin phép (Điều 23.1.a): nên bổ sung ngoài "sao chép" còn có "dịch" và ngoài "sử dụng riêng" nên bổ sung "hoặc nhằm mục đích giảng dạy trong nhà trường" nhằm đáp ứng nhu cầu phổ cập kiến thức của công chúng trong thời đại hiện nay.

- Giới hạn quyền tác giả đối với phần mềm máy tính (Điều 23.2): câu chữ của Điều này không rõ nghĩa - toàn bộ Điều 23.1 không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, phần mềm hay chỉ việc nêu trích dẫn mới không áp dụng? Nếu không trích dẫn, thì sẽ dẫn đến trường hợp như vụ kiện xâm phạm phần mềm iCMS, khi nhóm tác giả chỉ sử dụng phần mềm của ông Fraser (một chuyên gia viết phần mềm mã nguồn mở của New Zealand) để phát triển nghiên cứu và nhận giải Trí tuệ Việt Nam 2003? Nếu toàn bộ Điều 23.1 không áp dụng đối với phần mềm máy tính, thì Điều 21.12 và 21.13 vô nghĩa.

- Điều 31 và 32: trước khi vào các Điều này nên có câu: "các tác phẩm thuộc … bao gồm:" sẽ khiến câu đầy đủ và rõ nghĩa hơn. Kiến nghị tương tự cho Điều 33.

- Quyền nộp đơn đăng ký quyền tác giả (Điều 34): điều này chưa dự trù tình huống có tranh chấp về quyền nộp đơn giữa tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả. Nếu cho tác giả nộp đơn, sẽ dẫn đến một nghịch lý là 300 lập trình viên phần mềm ai cũng có quyền nộp đơn yêu cầu bảo hộ phần mềm.

- Cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền tác giả (Điều 36): Cục Bản quyền tác giả văn học nghệ thuật hiện không còn chức năng quản lý các tác phẩm khoa học (công trình khoa học, phần mềm máy tính, v.v.). Như vậy phải là Cục Sở hữu trí tuệ mới cấp Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả cho phần mềm. Ngoài ra, tên các cơ quan nhà nước không nên ghi vào luật, vì luật có tính ổn định cao, trong khi các cơ quan nhà nước có thể thay đổi tên. Nên chăng sửa lại thành "cơ quan đăng ký quyền tác giả" cho thống nhất với "cơ quan đăng ký quyền sở hữu công nghiệp ở phần sau." Sau đó, Chính phủ sẽ ban hành Nghị định, qui định cơ quan nào là cơ quan đăng ký quyền tác giả.

- Giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả (Điều 39): nên qui định rõ "giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả không có giá trị pháp lý, song có giá trị chứng cứ trước các cơ quan nhà nước." Điều này tránh tình trạng các chủ thể giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả dùng giấy này để buộc các chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp (có cùng đối tượng bảo hộ) phải ngưng sản xuất hay trả tiền bản quyền cho mình (theo một vụ án có thật xảy ra tại Tỉnh Bến Tre - vụ "Trà Gấu Misa").

- Hủy bỏ, đình chỉ hiệu lực của Giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan (Điều 40, Điều 70) nên qui định chế tài đối với cơ quan đăng ký quyền tác giả nếu vì chậm trễ không hủy bỏ giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả gây thiệt hại chủ thể khác thì phải bồi thường thiệt hại. Thí dụ: A sản xuất nước khoáng nhãn hiệu A1 (song chưa đăng ký nhãn hiệu), B xin đăng ký quyền tác giả toàn bộ chai nước khoáng cùng nhãn hiệu A1 (tác phẩm tạo hình) và dùng Giấy chứng nhận đăng ký để buộc A phải ngưng sản xuất hoặc trả tiền bản quyền. A yêu cầu hủy Giấy chứng nhận, song cơ quan đăng ký không hủy, gây thiệt hại cho A, vậy cơ quan đăng ký có phải bồi thường không?

- Điều 43.1 nên sửa "quyền độc quyền về tài sản" thành "quyền tài sản" cho phù hợp với Điều 18. Điều 43.2 sẽ dẫn đến nghịch lý như đã phân tích tại Điều 17.

- Chuyển nhượng quyền tác giả có đồng chủ sở hữu (Điều 44.2): qui định này mâu thuẫn với qui định tại Điều 27.2 và Điều 46.1.b, theo đó nếu các phần của tác phẩm có thể tách ra để sử dụng riêng thì việc định đoạt không cần phải xin phép các đồng chủ sở hữu quyền tác giả. Đề nghị nên bỏ một trong hai Điều 44.2 và 46.1.b. Theo tôi nên bỏ Điều 46.1.b và thêm vào cuối câu đầu của Điều 44.2 "trừ trường hợp các đồng chủ sở hữu quyền tác giả có thoả thuận khác."

- Khai thác sử dụng tác phẩm thông qua hợp đồng (Điều 49.2): Trên thực tế, nhiều trường hợp người dịch xin phép chủ sở hữu quyền tác giả dịch tác phẩm, và chủ sở hữu cho phép dịch miễn phí mà không phải trả khoản tiền nào. Như vậy giữa các bên không có hợp đồng mà chỉ trao đổi thư từ. Vì thế nên thay từ "bằng hợp đồng" bằng "bằng văn bản" trong Điều 49.2.

- Danh từ "hợp đồng sử dụng tác phẩm" (Điều 49) nên sửa thành "hợp đồng sử dụng quyền tác giả" hay "hợp đồng li-xăng quyền tác giả". Luật các nước Anh-Mỹ cũng dùng khái niệm "copyright license" chứ không dùng "work license." Ngoài ra nên thêm vào cuối câu đầu của Điều 49.2 "trừ trường hợp các đồng chủ sở hữu quyền tác giả có thoả thuận khác."

- Điều 51.1 nên ghi là "quyền và nghĩa vụ" thay vì "quyền" cho thống nhất với nội dung.

- Mẫu hợp đồng (Điều 53): điều này không rõ mẫu hợp đồng có giá trị bắt buộc hay chỉ có giá trị tham khảo. Nếu là giá trị bắt buộc thì sẽ vi phạm nguyên tắc tự do, tự nguyện giao kết hợp đồng. Nếu các mẫu không có giá trị bắt buộc thì Điều 53 không cần thiết. Đề nghị bỏ điều này.

- Giải thích thuật ngữ (Điều 57) nên xếp theo thứ tự ABC cho dễ theo dõi.

- Điều 58.1.g: khái niệm "cho thuê thương mại tới công chúng" có thể được dịch từ tiếng Anh (public rental right) mà chưa Việt hoá, nên sửa thành "cho thuê … nhằm mục đích thương mại." Từ "công chúng" là không cần thiết. Góp ý tương tự cho Điều 59.1.c. Trước "thời hạn bảo hộ" (đoạn 2 của Điều 58.2) nên đánh số "3" (Khoản 3 Điều 58).

- Quyền của người biểu diễn, tổ chức sản xuất bản ghi âm, ghi hình, phát sóng (Điều 58, 59, 61) thiếu nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả. Thí dụ nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu sáng tác "Thuyền và Biển" trong khi là công chức nhà nước và thực hiện công việc được giao. Như vậy trên nguyên tắc Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả đối với bản nhạc. Vậy tổ chức ghi âm, ghi hình không phải trả thù lao cho nhạc sỹ Phan Huỳnh Điểu hay sao? Đó là chưa kể tổ chức ghi âm, ghi hình phải trả thù lao cho người thừa kế của nhà thơ Xuân Quỳnh (tác giả bài thơ Thuyền và Biển). Theo tôi nên bổ sung nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả đối với tất cả các chủ thể quyền liên quan. Ngay cả khi các chủ thể quyền liên quan chuyển giao quyền của mình cho chủ thể khác thì vẫn phải trích một phần lợi nhuận từ hợp đồng để trả cho tác giả; và người được hưởng quyền liên quan theo hợp đồng chuyển nhượng vẫn phải có nghĩa vụ trả thù lao cho tác giả.

- Hành vi vi phạm quyền liên quan (Điều 63): vì không định nghĩa thế nào là "sử dụng quyền liên quan" nên cần ghi rõ "sử dụng quyền liên quan theo qui định tại Điều 58, 59, 60, 61, 62."

TS. Lê Nết
Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh

Các văn bản liên quan