ThS. LS. Nguyễn Hoàng Giang – LG. Nguyễn Thị Mai – Công ty Luật TNHH VNLC: Bất cập của quy định tại Nghị định 124/2008 về thuế thu nhập doanh nghiệp

Thứ Năm 10:28 10-03-2011

Bất cứ một quốc gia nào thuế là một nguồn thu rất lớn cho đất nước đó. Thực tế cho thấy, ở Việt Nam hiện nay có quá nhiều loại thuế do vậy đã có ý kiến đưa ra ở Việt NamThuế đánh trùng trên thuế”. Doanh nghiệp nào muốn hoạt động được phải nộp thuế môn bài, thuế thu nhập doanh nghiệp…Có ý kiến cho rằng, hệ thống pháp luật về đất đai có nhiều cái nhất như: ban hành nhiều văn bản nhất, được sửa đổi nhiều nhất, vi phạm nhiều nhất, tiêu cực nhiều nhất, tranh chấp, mất cán bộ nhiều nhất. Nhưng, bên cạnh đó còn cho thấy, hệ thống pháp luật về thuế cũng có nhiều cái nhất không kém. Mỗi lần doanh nghiệp phải đến cơ quan thuế không khỏi than phiền về sự phức tạp của thuế không chỉ về hồ sơ, thủ tục, giấy tờ mà cả vấn đề tiêu cực.

Trong khuôn khổ buổi hội thảo này, xin nêu một số bất cập của Nghị định 124/2008/NĐ- CP của Chính phủ ngày 11 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về xác định giá bất động sản để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Tại khoản 1 Điều 14 của Nghị định 124 quy định thu nhập chịu thuế chuyển nhượng bất động sản như sau:

“1. Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định theo giá thực tế chuyển nhượng.

Trường hợp giá chuyển quyền sử dụng đất thấp hơn giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định thì tính theo giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định tại thời điểm chuyển nhượng bất động sản.”

Tại Điều 174 của BLDS năm 2005 quy định về bất động sản như sau:

Bất động sản là các tài sản bao gồm:

a)    Đất đai;

b)    Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó;

c)     Các tài sản khác gắn liền với đất đai;

d) Các tài sản khác do pháp luật quy định.

Theo quy định trên cho thấy, các doanh nghiệp khó thực hiện quy định này vì nội dung chưa rõ. Ví dụ: Doanh nghiệp chuyển nhượng nhà hoặc công trình gắn liền với quyền sử dụng đất thì họ áp dụng quy định của đoạn một hay áp dụng cả đoạn hai để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.

Theo khái niệm của BLDS thì bất động sản có trường hợp là đất đai (không có nhà), có trường hợp chỉ có bán nhà, cho thuê nhà, bán công trình xây dựng, cho thuê công trình xây dựng (không có đất đai).

Đoạn một có nêu: “Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định theo giá thực tế chuyển nhượng.” Khái niệm “giá thực tế chuyển nhượng” là giá nào, căn cứ vào hợp đồng chuyển nhượng hay vào giấy tờ nào? Theo quy định của BLDS, Luật đất đai, Luật về nhà ở, Nghị định 71/2010/NĐ-CP quy định thi hành Luật về nhà ở thì khi chuyển nhượng bất động sản phải có hợp đồng và phải được công chứng. Vậy căn cứ thu thuế doanh nghiệp phải trên cơ sở giá ghi trong hợp đồng đã có công chứng thì mới hợp lý. Vì hợp đồng là cơ sở pháp lý để xác địch giao dịch đó có hợp pháp hay không, khi có tranh chấp các bên, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án sẽ dựa vào đó để giải quyết. Vậy quy định này nên viết lại như sau: “Doanh thu để tính thu nhập chịu thuế được xác định theo giá mà các bên đã ghi trong hợp động chuyển nhượng, mua bán, cho thuê bất động sản.

Theo quy định tại Điều 56 của Luật đất đai 2003 thì giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành cũng được áp dụng để tính thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất. Cho nên trong văn bản pháp luật không nên đưa ra quy định: “Trường hợp giá chuyển quyền sử dụng đất thấp hơn giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định thì tính theo giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định tại thời điểm chuyển nhượng bất động sản”. Vì trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà ghi giá đất thấp hơn giádo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định thì phải phạt về tội khai man, gian lận để trốn thuế vì hành vi đó vi phạm pháp luật, nếu cơ quan thuế phát hiện thì phải xử lý theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý. Đoạn này nên viết lại như sau: “ Trường hợp chuyển nhượng quyền sử dụng đấtnếu giá đất thỏa thuận trong hợp đồng thấp hơn giá đất do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định thì tính theo giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định tại thời điểm chuyển nhượng và các bên phải bị xử lý theo quy định của pháp luật về tội khai nam để trốn thuế”.

Thứ hai, về thời điểm xác định doanh thu để tính thuế

Khoản 2 Điều 14 của Nghị định 124 quy định: “Thời điểm xác định doanh thu để tính thu nhập chịu thuế là thời điểm bàn giao bất động sản.” Quy định này không hợp lý vì giá bất động sản lên xuống thất thường. Thực tế cho thấy, thời điểm ký kết mua bán, cho thuê bất động sản và thời điểm bàn giao bất động sản có một số trường hợp không xảy ra vào cùng một thời điểm, có thể xảy ra ba trường hợp khác nhau. Cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất ,  thời điểm ký hợp đồng giá bất động sản cao, nhưng thời điểm bàn giao bất động sản giá bất động sản xuống thấp thì người nộp thuế thu nhập doanh nghiệp được lợi.

Trường hợp thứ hai , thời điểm ký kết hợp đồng mua bán, cho thuê, chuyển nhượng bất động sản giá thấp, nhưng thời điểm bàn giao bất động sản giá cao thì người nộp thuế bị thiệt.

Trường hợp thứ ba , thời điểm ký kết hợp đồng mua bán, cho thuê, chuyển nhượng bất động sản và thời điểm bàn giao bất động sản giá bất động sản không bị biến động.
Nếu áp dụng quy định này thì thuế thu nhập doanh nghiệp từ chuyển nhượng bất động sản rất khó xác định. Nên chăng thời điểm xác định thuế thu nhập vẫn phải căn cứ vào giá được ghi trong hợp đồng chuyển nhượng, cho thuê bất động sản đã có công chứng, quy định này áp dụng chung cho cả trường hợp chưa trả tiền hoặc đã trả tiền trước.

Thứ ba, quy định về chi phí bất động sản được trừ Tại đoạn hai điểm a khoản 3 Điều 14 của Nghị định 124 quy định: “ Đối với đất nhận quyền sử dụng của tổ chức, cá nhân khác thì căn cứ vào hợp đồng và chứng từ trả tiền hợp pháp khi nhận quyền sử dụng đất, quyền thuê đất; trường hợp không có hợp đồng và chứng từ trả tiền hợp pháp thì giá vốn được tính theo  giá do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố Trung ương quy định tại thời điểm doanh nghiệp nhận chuyển nhượng bất động sản.” Cách thể hiện như quy định này chưa phù hợp với quy định của pháp luật. Theo quy định của Bộ luật dân dự, pháp luật về đất đai, pháp luật về nhà ở thì hợp động giao dịch liên quan đến bất động sản phải được lập thành văn bản, phải có công chứng. Những giao dịch về bất động sản không đúng quy định của bất động sản không tuân theo quy định của pháp luật thì vi phạm pháp luật và sẽ bị vô hiệu. Đặc biệt, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh bất động sản, hoạt động xây dựng sẽ ít hoặc sẽ không có những trường hợp nhận chuyển nhượng bất động sản mà lại không có hợp đồng.

 

Các văn bản liên quan