Th.S Nguyễn Văn Cương: Nhiều vấn đề cần tiếp tục được hoàn thiện

Thứ Năm 08:12 03-09-2009

MỘT SỐ Ý KIẾN VỀ DỰ THẢO LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG

Có thể nói, sau hơn một năm làm việc rất khẩn trương, trên cơ sở khảo sát thực tiễn Việt Nam, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, cùng những buổi tranh luận nội bộ khá thẳng thắn, Ban soạn thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng đã hoàn thành bản dự thảo 4 với nội dung khá toàn diện. Bản dự thảo này được công bố trên website của Bộ Công Thương[1] và được sử dụng để tham vấn ý kiến công chúng và các đối tượng có liên quan.

Dự thảo Luật được xây dựng dựa trên tinh thần chung được pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nhiều quốc gia ghi nhận đó là: coi người tiêu dùng là trung tâm và là bên yếu thế trong quan hệ với thương nhân. Việc xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng nhằm cân bằng lợi ích xã hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng, bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng, góp phần đảm bảo phát triển bền vững kinh tế đất nước.

So với các quy định về bảo vệ người tiêu dùng hiện hành trong các văn bản pháp luật có liên quan như Bộ luật dân sự năm 2005, Pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 v.v., dự thảo Luật có nhiều quy định rất mới và có thể nói là khá đột phá. Điều đó cho thấy nỗ lực của Ban soạn thảo muốn xây dựng một đạo luật để việc bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta được nâng lên một mức mới một cách rõ nét.

Tuy nhiên, theo dõi sát quá trình xây dựng đạo luật này, khi nghiên cứu kỹ bản dự thảo 4, chúng tôi vẫn thấy còn nhiều vấn đề cần hoàn thiện tiếp:

1. Về việc phân đoạn chu trình bảo vệ người tiêu dùng

Theo bản dự thảo Luật, chu trình tiêu dùng từ giai đoạn trước khi giao kết hợp đồng giữa thương nhân với người tiêu dùng đến khi giao kết, thực hiện giao dịch và cho đến khi người tiêu dùng sử dụng hàng hóa, dịch vụ đều cần có những biện pháp bảo vệ cụ thể. Cụ thể, chu trình này được phân làm 3 công đoạn: những hành vi của thương nhân và người tiêu dùng “trước khi giao dịch”, những hành vi của thương nhân và người tiêu dùng “trong giao dịch”, và những hành vi của thương nhân và người tiêu dùng “trong quá trình sử dụng hàng hóa, dịch vụ”. Trong mỗi công đoạn, người tiêu dùng lại được bảo vệ bởi một nhóm biện pháp (thể hiện tại Chương 2 (từ Điều 6 đến Điều 9), Chương 3 (từ Điều 10 đến Điều 14), và Chương 4 (từ Điều 15 đến Điều 20)). Cách suy nghĩ như vậy, về mặt lý thuyết, là hoàn toàn hợp lý. Tuy nhiên, mang cách suy nghĩ đó để thể hiện vào dự án luật thì lại bộc lộ những vấn đề riêng của nó.

Sự thực là, trong thực tế, đối với mỗi giao dịch giữa một thương nhân với một người tiêu dùng cụ thể, 3 công đoạn trên khá tách biệt và rành mạch. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thị trường, trong tương tác giữa các thương nhân với hàng ngàn, hàng ngàn người tiêu dùng, 3 công đoạn kể trên sẽ luôn đan xen, hòa quyện với nhau và nhiều trường hợp là không thể tách rời ra được. Có những hành vi gây thiệt hại cho người tiêu dùng của thương nhân không chỉ tác động trong công đoạn “trước giao dịch” mà còn tác động tới cả những công đoạn còn lại. Việc tách các hành vi của thương nhân để xếp riêng vào từng công đoạn với cách thức xử lý riêng rất có thể sẽ giống như việc cố “đẽo chân cho vừa giày”. Thêm vào đó, với những hành vi xâm hại tới cả 3 công đoạn của thương nhân mà chỉ xếp vào một công đoạn để xử lý, thì rất dễ gây hiểu lầm rằng hành vi này chỉ bị cấm trong từng công đoạn cụ thể, còn ở những công đoạn khác, hành vi đó sẽ không bị cấm.

Chúng tôi chỉ đơn cử một vài ví dụ đã được dự thảo đề cập tới. Điều 9 của Luật này có một số quy định như sau: "Hành vi ép buộc người tiêu dùng: Cấm thương nhân thực hiện một trong những hành vi sau đây:

1. Trực tiếp hay gián tiếp dùng vũ lực, đe doạ sử dụng vũ lực đối với người tiêu dùng;

5. Hạn chế hoặc ngăn cản người tiêu dùng thực hiện các quyền được pháp luật quy định”.

Thực ra, không cần phải suy nghĩ nhiều lắm, chúng ta cũng có thể thấy rằng, các hành vi kể trên hoàn toàn có thể diễn ra trong quá trình giao dịch, thậm chí trong quá trình thực thi các nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch giữa người tiêu dùng với thương nhân.

Tương tự, một số nội dung trong Điều 15 như nghĩa vụ “chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn sản phẩm” hay “cảnh báo ngay cho người tiêu dùng nếu phát hiện nguy cơ mất an toàn của hàng hóa, dịch vụ đã cung cấp”, “ngừng việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người tiêu dùng” có thể phải thực hiện trước cả khi thương nhân giao kết với người tiêu dùng.

Khi tham khảo các đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng của các nước như Anh, Pháp, Nhật, Canada, một số nước ASEAN, chúng tôi thấy cách phân chia kể trên không hề tồn tại. Có lẽ, đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc vì sao luật về bảo vệ người tiêu dùng của các nước đi trước ta chỉ cần dùng 3 chế định độc lập “hành vi thương mại không công bằng”, “hợp đồng tiêu dùng” và “trách nhiệm sản phẩm” cũng đủ để giải quyết những vướng mắc vừa nêu mà không cần phân chia theo 3 công đoạn như thế.

2. Về hợp đồng tiêu dùng

Dự thảo Luật đã cố ý tránh dùng thuật ngữ “hợp đồng tiêu dùng” (tức là hợp đồng được giao kết giữa thương nhân và người tiêu dùng) nhằm tránh khả năng một cuộc tranh luận mới tương tự như cuộc tranh luận đã từng diễn ra ở nước ta trong suốt thập niên 1990 cho tới khi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế chính thức bị bãi bỏ[2] trong giới pháp lý về việc nên có 2 hay 3 loại hợp đồng thì phù hợp[3]. Tuy nhiên, dù muốn hay không, Dự thảo Luật cũng không tránh khỏi đưa ra các quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng như trong Chương 3 của Dự Luật (từ Điều 10 đến Điều 14). Chẳng hạn:

Điều 10. Ngôn ngữ của hợp đồng:Ngôn ngữ của hợp đồng với người tiêu dùng phải được thể hiện một cách rõ ràng, dễ hiểu và phải thể hiện bằng tiếng Việt.

Điều 11. Giải thích hợp đồng:Trong trường hợp có nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung hợp đồng thì hợp đồng được giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.

Điều 12.1. Điều khoản vô hiệu: “Các điều khoản trong hợp đồng ký kết với người tiêu dùng và các điều kiện thương mại áp dụng chung có một trong những nội dung sau đây bị vô hiệu:

a) Loại trừ trách nhiệm của thương nhân đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật;

b) Quy định loại trừ các quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng;

c) Cho phép thương nhân có quyền đơn phương thay đổi các điều kiện thương mại đã thoả thuận với người tiêu dùng;

d) Cho phép thương nhân có quyền đơn phương quyết định người tiêu dùng không thực hiện được một hoặc một số nghĩa vụ;

đ) Hạn chế các quyền khác của người tiêu dùng theo quy định của pháp luật.

Điều 13. Hợp đồng theo mẫu:

1. Khi giao kết hợp đồng theo mẫu, thương nhân phải dành cho người tiêu dùng có một thời gian hợp lý để nghiên cứu hợp đồng.

2. Người tiêu dùng có quyền yêu cầu sửa đổi hợp đồng trong trường hợp không đồng ý với nội dung của hợp đồng theo mẫu.

3. Thương nhân phải chịu trách nhiệm bảo quản hợp đồng theo mẫu đã giao kết cho đến khi hợp đồng đó hết hiệu lực. Trong trường hợp bản hợp đồng do người tiêu dùng giữ bị mất hoặc hư hỏng thì thương nhân phải cấp cho người tiêu dùng bản sao hợp đồng có giá trị như bản chính.

4. Thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho người tiêu dùng có sử dụng hợp đồng theo mẫu phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng trước khi sử dụng.

5. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng có quyền yêu cầu thương nhân hủy bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng theo mẫu theo đề nghị của người tiêu dùng hoặc trong trường hợp phát hiện quy định trong hợp đồng vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng.

Có thể nói, quan hệ hợp đồng giữa thương nhân với người tiêu dùng là một loại quan hệ phổ biến, chủ yếu trong nền kinh tế thị trường. Đây cũng là nguồn cơn phát sinh những vấn đề mà người tiêu dùng phải gánh chịu. Nhìn vào các quy định này có thể hiểu rõ sự bảo hộ của pháp luật đối với người tiêu dùng được bảo đảm ở mức nào.

Theo lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ người tiêu dùng thì đạo luật bảo vệ người tiêu dùng được xây dựng để “khắc phục” các khuyết tật trong quan hệ thị trường giữa thương nhân với người tiêu dùng. Theo giới khoa học kinh tế và pháp lý ở các quốc gia có kinh nghiệm lâu năm về bảo vệ người tiêu dùng, quan hệ giữa thương nhân và người tiêu dùng là một dạng quan hệ “bất cân xứng”. Sự bất cân xứng của loại quan hệ này thể hiện chủ yếu ở 3 khía cạnh: “bất cân xứng về thông tin”, “bất cân xứng về khả năng thương lượng giao kết hợp đồng” và “bất cân xứng về khả năng tài chính trong việc gánh chịu rủi ro”.

3 sự bất cân xứng ấy thể hiện ở mọi quan hệ giữa thương nhân và người tiêu dùng nhưng mức độ thể hiện trong các quan hệ giữa thương nhân và người tiêu dùng không hoàn toàn giống nhau. Kinh nghiệm của các nước có kinh nghiệm lâu năm về bảo vệ người tiêu dùng chỉ ra rằng, sự bất cân xứng kể trên thể hiện nghiêm trọng nhất ở trong một số loại giao dịch như bán hàng tại cửa, bán hàng từ xa và cung ứng dịch vụ liên tục.

Chẳng hạn, với loại bán hàng tại cửa, theo đó, doanh nghiệp cho nhân viên của mình mang hàng hóa tới tiếp thị và bán trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở hoặc nơi làm việc của họ. Trường hợp này, người tiêu dùng ở thế bị động khi được tiếp thị, hoàn toàn khác với trường hợp người tiêu dùng chủ động đi ra cửa hàng, cửa hiệu, siêu thị hoặc liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp để mua hàng. Tình trạng này không phải là hiếm trong bối cảnh hoạt động bán hàng đa cấp và các phương thức bán hàng tương tự đang bùng phát ở Việt Nam. Thực tế, nhiều loại hàng gia dụng như bàn là, máy sấy tóc, máy sinh tố, thực phẩm chức năng, máy mát -xa, máy tạo ôzôn, đệm từ v.v. ở Việt Nam đang được phân phối theo phương thức này. Không ít trường hợp, do ở thế bị động và thiếu thông tin, người tiêu dùng đã mua phải các sản phẩm với giá rất đắt hoặc những sản phẩm kém chất lượng hoặc không rõ công dụng do chỉ tin vào thông tin một phía từ nhân viên bán hàng. Hiện tại, pháp luật hợp đồng Việt Nam (quy định trong BLDS) coi các hợp đồng bán hàng này cũng giống như mọi loại hợp đồng bán hàng, bán tài sản khác. Điều đó có nghĩa, nếu người tiêu dùng đã đồng ý mua hàng, trả tiền thì nói chung không còn được tự ý chấm dứt hợp đồng, trả lại hàng, đòi lại tiền. Xét từ góc độ bảo đảm quyền được thông tin và quyền lựa chọn hàng hoá của người tiêu dùng, quy định như trên của pháp luật Việt Nam chưa thực sự bảo đảm tốt các quyền năng của người tiêu dùng. Lý do là, phương thức bán hàng trực tiếp đã khiến cho người tiêu dùng rơi vào thế "bị tấn công", thế bị động, không có đủ thời gian, sự tỉnh táo cần thiết để kiểm chứng thông tin, tìm hiểu thêm về sản phẩm được tiếp thị và dễ đưa ra các quyết định vội vàng. Giải quyết tình huống đó, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của nhiều quốc gia, như Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Nhật Bản v.v.. thường đưa ra quy định cho phép người tiêu dùng có một thời gian nhất định (thường là từ 7 đến 10 ngày) để cân nhắc, suy nghĩ, tham khảo thêm thông tin. Trong thời hạn đó, người tiêudùng có thể đổi ý, trả lại hàng hoá, đòi lại tiền của người bán hàng bất cứ khi nào mà không cần giải thích lý do. Khoảng thời gian này là thời gian để người tiêu dùng "làm nguội" cái đầu của mình từ đó đưa ra các quyết định cẩn trọng hơn.

Đối với trường hợp bán hàng từ xa (ví dụ mua bán qua mạng Internet, mua bán hàng qua kênh bán hàng trên tivi v.v.), khi giữa người mua và người bán không trực tiếp gặp nhau thương lượng, không trực tiếp cùng kiểm tra hàng hóa mua bán, người tiêu dùng rất có khả năng gặp những rủi ro từ loại giao dịch này. Chẳng hạn, do thông tin trao đổi giữa hai bên không rõ ràng, người tiêu dùng có thể phải nhận những loại hàng hóa không giống như suy nghĩ và kỳ vọng ban đầu của mình. Với sự phát triển mạnh mẽ của Internet hiện nay (với hơn 20 triệu người sử dụng), cùng với sự phổ cập ngày càng lớn các kênh truyền hình bán hàng trực tiếp, các hợp đồng bán hàng từ xa sẽ không còn trở nên xa lạ với người tiêu dùng Việt Nam. Theo quy định của pháp luật hợp đồng hiện hành của Việt Nam (Bộ luật dân sự năm 2005), hợp đồng bán hàng từ xa cũng được coi như một hợp đồng bán hàng thông thường. Hình thức của hợp đồng này có thể thể hiện dưới bất cứ hình thức nào (bằng lời nói, hành vi hoặc bằng văn bản). Những quy định như vậy hoàn toàn không giải quyết được những vấn đề mà người tiêu dùng có thể gặp phải trong loại giao dịch này. Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng của nhiều quốc gia trên thế giới thường đưa ra quy định hợp đồng bán hàng từ xa phải được thể hiện dưới hình thức văn bản (nhất là từ một mức giá trị nào đó) do người bán phát hành, trong đó phải ghi rõ những điều khoản cơ bản nhất như: tên, địa chỉ liên lạc của người bán; tên, địa chỉ của người mua; ngày ký hợp đồng; mô tả chi tiết về hàng hoá, dịch vụ được cung ứng (ghi rõ các chỉ tiêu về kỹ thuật và chuyên môn); cấu thành giá của hàng hoá, dịch vụ (nêu rõ giá chưa có thuế và giá có thuế, các khoản phí phải trả, bao gồm cả phí vận chuyển, phí môi giới); điều kiện về vận chuyển (bao gồm cả tên của người có trách nhiệm vận chuyển, địa điểm giao hàng); cách thức thanh toán tiền hàng (các khoản trả chậm, trả dần nếu có, mức lãi suất áp dụng cho các khoản trả chậm, trả dần); các giới hạn trách nhiệm (nếu có) của người bán, người vận chuyển; điều kiện chấm dứt hợp đồng; điều kiện đổi, trả lại hàng hoá; chính sách trả lại tiền hàng v.v. .Trường hợp hợp đồng bán hàng từ xa được thể hiện dưới hình thức điện tử (trên mạng Internet), thì người bán hàng phải bảo đảm rằng trước khi người tiêu dùng giao kết hợp đồng, họ phải được cung cấp các thông tin cần thiết về hàng hoá, dịch vụ. Các thông tin đó có thể lưu giữ lại dưới dạng bản in; đồng thời, người tiêu dùngphải được quyền sửa chữa những sai sót mà mình đã viết vào bản hợp đồng. Chúng tôi cho rằng, Dự thảo Luật cũng nên có các quy định tương tự nhằm bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng ở nước ta hiện nay. Luật nên nêu rõ trong một thời hạn nhất định sau khi đã giao kết hợp đồng, người bán phải gửi cho người tiêu dùng một bản hợp đồng chính thức để người tiêu dùng biết và kiểm tra quá trình thực hiện hợp đồng của các bên. Nếu người tiêu dùng không nhận được bản hợp đồng trong thời hạn đó, người tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không phải bồi thường, bồi hoàn cho người bán; trong trường hợp người tiêu dùng chấm dứt hợp đồng mà người tiêu dùng đã trả tiền cho người bán thì trong một thời hạn nhất định (chẳng hạn nhiều nhất là 15 ngày), người bán phải trả lại khoản tiền đã nhận của người tiêu dùng.

Rất tiếc những biện pháp bảo vệ như vừa nêu lại không được Ban soạn thảo nghiên cứu kinh nghiệm hữu ích của nước ngoài mặc dù thực tiễn công tác bảo vệ người tiêu dùng ở nước ta đang đặt ra rất bức thiết.

Một điểm nữa cũng liên quan đến các quy định về hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng tại Điều 12 của Dự luật đã nêu đó là: khi thương nhân có các hành vi bị cấm nêu tại chương 2 của dự luật (nhất là có các hành vi thông tin gian dối với người tiêu dùng), thì hợp đồng giữa người tiêu dùng với thương nhân có đương nhiên vô hiệu hay không? Chúng tôi cho rằng, Dự luật nên bổ sung và quy định rõ, khi thương nhân thực hiện những hành vi có tính gian dối hoặc ép buộc, đe dọa với người tiêu dùng, thì hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng cũng bị coi là vô hiệu.

3. Về kiểm soát hợp đồng mẫu

Khi tham vấn ý kiến của cộng đồng doanh nghiệp, nhiều doanh nghiệp cho rằng việc quy định phương thức “tiền kiểm” đối với hợp đồng mẫu là một dạng hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp một cách bất hợp lý. Chúng tôi cho rằng, quan điểm này rất hợp lý và đáng được cân nhắc. Trong thực tế, hàng ngàn doanh nghiệp sử dụng các loại hợp đồng mẫu khi cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng thuộc hàng ngàn ngành, lĩnh vực khác nhau, Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng rất khó có đủ nhân lực và chuyên môn để rà soát, thẩm định tất cả các loại hợp đồng này. Nên nhớ, về mặt lý thuyết, cơ quan này chỉ được trang bị nhiệm vụ và chức năng để “rà soát” dưới góc độ bảo vệ người tiêu dùng mà thôi. Bản thân một hợp đồng, có hàng chục khía cạnh khác nhau mà cơ quan này không thể và không có quyền thẩm định, cho ý kiến được.

Thêm vào đó, việc tiền kiểm đối với hợp đồng mẫu cũng khiến cơ quan bảo vệ người tiêu dùng có thể gặp phải những rủi ro pháp lý không lường trước được. Chẳng hạn, một bản hợp đồng mẫu, sau khi đã được rà soát và phê duyệt bởi cơ quan này, theo đó, theo quan điểm của cơ quan này, đây là hợp đồng phù hợp với quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng, nhưng sau này, khi có tranh chấp xảy ra, vụ việc được đưa ra tranh tụng tại Tòa án và Tòa án, với tư cách là một cơ quan độc lập trong việc ra phán quyết, lại ra bản án theo đó, bản hợp đồng này có điều khoản xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, khi đó, trách nhiệm của cơ quan bảo vệ người tiêu dùng sẽ là như thế nào? Dù về mặt pháp lý, việc truy cứu trách nhiệm đối với cơ quan này không hề đơn giản, nhưng về uy tín trước công chúng, chắc chắn cơ quan bảo vệ người tiêu dùng sẽ bị thiệt hại lớn.

4. Về thủ tục rút gọn

Việc quy định thủ tục rút gọn là cần thiết. Kinh nghiệm của hầu hết các quốc gia đã ban hành luật bảo vệ người tiêu dùng đều cho thấy, thủ tục tố tụng rút gọn là công cụ hữu ích đối với người tiêu dùng. Chúng tôi hoan nghênh tinh thần chung của dự thảo Luật về vấn đề này. Tuy nhiên, đi vào chi tiết, còn một số nội dung đáng lưu ý như sau:

-Điều 46 quy định chưa thực sự rõ việc giải quyết vụ việc của người tiêu dùng sẽ do hội đồng (gồm 1 thẩm phán và hai hội thẩm) hay chỉ một thẩm phán giải quyết. Có vẻ như Ban soạn thảo thiên về phương án “một thẩm phán”. Tuy nhiên, nếu như vậy thì quy định này lại không phù hợp với quy định trong Hiến pháp[4]. Một điểm nữa rất đáng lưu ý là điều luật này quá thiên vào việc làm sao vụ việc được “xét xử” thật nhanh mà không quy định thủ tục “hòa giải” giữa các bên trước phiên xét xử. Thông lệ của các tòa án xét xử theo thủ tục rút gọn của các nước, giai đoạn “hòa giải” giữa các bên, kể cả giữa các bên trong vụ việc của người tiêu dùng, bao giờ cũng là giai đoạn rất được coi trọng. Có lẽ Dự thảo Luật nên bổ sung nội dung này vào Điều 46. Ngoài ra, Điều luật này cũng chưa quy định khi người tiêu dùng tiến hành khởi kiện và được thụ lý thì trong thời hạn bao lâu thì phía bị đơn được cung cấp đơn khởi kiện hoặc được thông báo về mình đang bị kiện để có cơ hội chuẩn bị cho việc tham gia tố tụng của mình. Đây cũng là nội dung cần bổ sung vào Dự luật.

- Điều 47 quy định án sơ thẩm có hiệu lực ngay, các đương sự không có quyền kháng cáo cũng không phù hợp với nguyên tắc 2 cấp xét xử - một thông lệ chung được pháp luật của hầu hết các quốc gia dân chủ áp dụng, kể cả các quốc gia có quy định về thủ tục rút gọn (kiểu mô hình Tòa khiếu kiện nhỏ - Small Claims Court).

5. Một số vấn đề khác

- Điều 53 quy định việc phân chia tiền bồi thường thiệt hại trong vụ án do tổ chức bảo vệ người tiêu dùng khởi kiện được thực hiện theo thứ tự ưu tiên sau đây:

1. Chi phí hợp lý của tổ chức bảo vệ người tiêu dùng phát sinh trong quá trình giải quyết vụ án;

2. Tiền bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng tham gia vụ án;

3. Nộp vào Quỹ bảo vệ người tiêu dùng theo quy định tại Điều 57 của Luật này”.

Thứ tự phân chia như vậy chúng tôi cho là hợp lý, tuy nhiên một vấn đề được đặt ra mà Dự thảo chưa quy định rõ đó là ai sẽ là người quyết định việc phân chia này và mức phân chia cho mỗi mục sẽ là bao nhiêu khi mà tiền bồi thường sau khi thanh toán chi phí giải quyết vụ án vẫn còn dư.

-Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo vệ người tiêu dùng: Đọc các quy định tại Điều 62 và 63 chúng tôi thấy Dự thảo còn quá thiên về vấn đề kiến nghị, khiếu kiện của tổ chức này mà chưa thấy quy định những nội dung mang tính chất “sứ mệnh” của chính tổ chức này đó là việc tự khảo sát, điều tra về các vấn đề của người tiêu dùng; xuất bản các ấn phẩm hướng dẫn người tiêu dùng; phổ biến, nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về các quyền của mình và các văn bản pháp luật có liên quan v.v.

Trên đây là một số ý kiến về Dư thảo Luật Bảo vệ người tiêu dùng, rất mong Ban soạn thảo cân nhắc, nghiên cứu tiếp thu.


[1] http://www.moit.gov.vn/web/guest/vanban/bocongthuong/dangsoanthao

[2] Theo Nghị quyết thi hành Bộ luật dân sự năm 2005 của Quốc hội

[3] Tức là tranh luận xem có nên phân hợp đồng thành “hợp đồng dân sự”, “hợp đồng kinh tế” (thậm chí là “hợp đồng thương mại”) hay không.

[4] Điều 129 “Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân”.

Các văn bản liên quan