Phát biểu của TS. Vũ Tiến Lộc-Chủ tịch VCCI

Thứ Hai 15:11 22-05-2006
Tham gia ý kiến đối với Dự án Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

T.S Vũ Tiến Lộc
Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
Đại biểu Quốc hội khoá XI


Về quan điểm, tôi cho rằng có 2 vấn đề quan trọng cần được quán triệt và thể hiện rõ trong Dự án Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế:

Thứ nhất, Dự án Luật cần quy định rõ ràng 2 nội dung đó là: (1) Việt Nam công nhận giá trị pháp lý của điều ước quốc tế như thế nào trong hệ thống pháp luật của Việt Nam; và (2) Trình tự, thủ tục ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam.

Đây là 2 vấn đề tôi cho là quan trọng nhất, phải xử lý được 2 vấn đề này thì Dự án Luật mới có thể đáp ứng được mục tiêu soạn thảo của nó cũng như xử lý được những bất cập hiện tại của hệ thống pháp luật Việt Nam liên quan đến điều ước quốc tế. Tôi nhất trí với đánh giá cho rằng hiện nay vấn đề giá trị pháp lý của điều ước quốc tế còn khá mơ hồ ở Việt Nam, kể cả những điều ước quốc tế đã được ký kết thì không phải trong mọi trường hợp chúng ta đều có thể biết được rõ điều ước quốc tế đó khi nào được áp dụng và được thực hiện như thế nào, có quan hệ thế nào với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. Đây không chỉ là khó khăn đối với cơ quan quản lý nhà nước mà còn đối với cộng đồng doanh nghiệp. Hơn nữa, trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của nước ta đều có quy định theo hướng điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên áp dụng hơn luật trong nước. Về nguyên tắc thì đúng, nhưng cụ thể như thế nào thì khó có sự hiểu thống nhất và tính thực thi của quy định này trên thực tế là không cao.

Vấn đề trình tự, thủ tục ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế cần phải được quy định chặt chẽ nhằm xác định rõ thẩm quyền của từng cơ quan trong việc thay mặt quốc gia ký kết, gia nhập điều ước quốc tế. Mặt khác, cũng nhằm khẳng định rõ trách nhiệm của các cơ quan trong việc xây dựng một cơ chế thực hiện thống nhất, tránh tuỳ tiện trong hoạt động này.

Thứ hai, dự án Luật cần khẳng định rõ chủ thể ký kết điều ước quốc tế phải là một quốc gia. Còn việc này thể hiện dưới hình thức pháp lý như thế nào, cấp nào được quyền thay mặt quốc gia để ký kết điều ước quốc tế thì phải được quy định cụ thể, từ đó tạo điều kiện cho việc thực hiện, đồng thời bảo đảm lợi ích của Việt Nam cũng như các nước tham gia ký kết điều ước quốc tế với Việt Nam.

Điều ước quốc tế có thể do Chủ tịch nước hay Thủ tướng hoặc Lãnh đạo cấp Bộ ký, tuy nhiên vấn đề mấu chốt ở đây cần phải khẳng định điều ước quốc tế đó được ký kết thay mặt cho một quốc gia. Tôi nhất trí cho rằng, ở Việt Nam, chỉ có những thỏa thuận được ký nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ mới được coi là đủ tư cách để đại diện cho quốc gia.

Việc coi thỏa thuận của các tỉnh, thành phố, Bộ, ngành, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội không phải là điều ước quốc tế, theo tôi, là hợp lý bởi nếu chúng ta nhất trí với nguyên tắc chủ thể của điều ước quốc tế phải là quốc gia thì thỏa thuận được ký kết nhân danh một Bộ, ngành, tỉnh, tổ chức khác chỉ được giới hạn trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan, tổ chức đã ký. Các thỏa thuận quốc tế này chỉ có thể ràng buộc trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức đó chứ không thể ràng buộc trách nhiệm của cả quốc gia. Ví dụ, thỏa thuận giữa một thành phố của Việt Nam với một thành phố nước ngoài thì chỉ là một thỏa thuận có giá trị pháp lý trong quan hệ hợp tác giữa 2 thành phố đó mà thôi; hoặc thỏa thuận giữa một tổ chức chính trị, chính trị xã hội của Việt Nam với một tổ chức chính trị, chính trị xã hội ở một nước khác cũng chỉ ràng buộc trách nhiệm của 2 tổ chức đó và khi các cơ quan, tổ chức này đi ký kết những thỏa thuận này phải bảo đảm không được trái với quy định của pháp luật trong nước.

Liên quan đến trình tự, thủ tục ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

1. Về tên gọi của Dự án Luật

Theo Dự án, tên gọi là “Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế”, theo tôi tên gọi như vậy vừa dài, vừa không thể hiện được đầy đủ nội dung của Luật. Do vậy tôi đề nghị đặt tên của Luật là “Luật về Điều ước quốc tế” hoặc “Luật Điều ước quốc tế”.

2. Về phạm vi áp dụng của Dự án Luật:Tôi nhất trí với phạm vi áp dụng của Dự án Luật như quy định tại Điều 1 (Điều 1 Dự án Luật quy định: "Luật này áp dụng đối với việc ký kết, gia nhập, bảo lưu, lưu chiểu, lưu trữ, áp lục, công bố, đăng ký, thực hiện, giải thích, sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hiệu lực, huỷ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Tuy nhiên, Tôi đề nghị cân nhắc lại thứ tự liệt kê các nội dung nêu tại Điều này vì không phù hợp với cách bố trí kết cấu của các chương. Hơn nữa, chúng tôi cho rằng không nên nêu cụ thể tại Điều này là “nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ” vì hai lý do sau:

Thứ nhất, khái niệm về điều ước quốc tế quy định tại khoản 1 Điều 2 phần “Giải thích từ ngữ” đã nêu cụ thể điều ước quốc tế được quy định trong Luật này là các thỏa thuận bằng văn bản được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước hoặc nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

Thứ hai, vì chủ thể của điều ước quốc tế là quốc gia nên nếu viết ngay ở đây là “nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ” thì chưa thực sự chính xác.

Do đó, chúng tôi đề nghị viết lại Điều 1 là: “Luật này áp dụng đối với việc ký kết, gia nhập, bảo lưu, lưu chiểu, lưu trữ, áp lục, công bố, đăng ký, thực hiện, giải thích, sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hiệu lực, huỷ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế được nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập”.

Ngoài ra, để làm rõ quan điểm là dự án Luật này không coi thoả thuận quốc tế được ký và gia nhập nhân danh các Bộ, ngành, các tỉnh, thành là điều ước quốc tế và là đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật này, tôi đề nghị chuyển quy định tại khoản 2 Điều 94 lên sau khoản 1 Điều 2 để làm rõ hơn phạm vi áp dụng của Dự án Luật.

3. Về quan hệ của điều ước quốc tế với pháp luật trong nước

Về nguyên tắc, chúng tôi nhất trí với việc quy định ngay và cụ thể trong Dự án Luật về việc: “Trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế”. Quy định như vậy tại Dự án Luật sẽ bảo đảm ta sẽ không phải nhắc lại quy định tương tự khi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, ở đây, tôi đề nghị cân nhắc lại hai điểm sau:

Thứ nhất, tôi nhất trí với đánh giá là nếu viết “điều ước quốc tế Việt Nam ký kết hoặc gia nhập” là chung chung. Nhưng nếu với cách giải thích là do trên thực tế nhiều điều ước quốc tế được ký kết và gia nhập chưa có hiệu lực ngay hoặc đã chấm dứt hiệu lực nên chưa hoặc không còn làm phát sinh nghĩa vụ phải thực hiện điều ước quốc tế với Việt Nam thì việc sử dụng thuật ngữ “điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên” lại chưa thực sự thuyết phục. Lý do là thuật ngữ “là thành viên” không phản ánh được tình trạng đang có hiệu lực của điều ước quốc tế đối với Việt Nam. Do đó, chúng tôi đề đề nghị sử dụng thuật ngữ “điều ước quốc tế đang có hiệu lực đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” ở đây và từ đó đề nghị bỏ khoản 11 Điều 2 của Dự án Luật.

Thứ hai, việc hiểu thế nào là “quy định khác nhau” giữa văn bản quy phạm pháp luật trong nước và điều ước quốc tế cũng là một vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng. Hiện đang có nhiều ý kiến góp ý về việc dùng thuật ngữ “khác nhau” trong các văn bản quy phạm pháp luật khi nói đến mối quan hệ giữa văn bản quy phạm pháp luật đó với văn bản quy phạm pháp luật khác và/hoặc điều ước quốc tế. Chúng ta nên làm rõ đây là “trái nhau” hay là “khác nhau”? Ví dụ, nếu văn bản quy phạm pháp luật trong nước quy định cùng về một vấn đề đã được quy định trong diều ước quốc tế, tuy nhiên chỉ quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn thì có được coi là “khác nhau” với điều ước quốc tế hay không. Tại phần sau của Dự án Luật, cụ thể là Điều 15, thì lại quy định là “mức độ trái”. Đây là một vấn đề không dễ xử lý nhưng chúng tôi cũng xin nêu ở đây để Ban soạn thảo cân nhắc thêm vì Dự án Luật này rất quan trọng, ảnh hưởng toàn diện đến việc áp dụng của hàng trăm điều ước quốc tế cũng như văn bản quy phạm pháp luật trong nước.

4. Về chuyển hóa điều ước quốc tế
Về nguyên tắc, chúng tôi nhất trí với quan điểm không nhất thiết phải chuyển hóa điều ước quốc tế vào nội luật (tức là bắt buộc phải ban hành văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề mà điều ước quốc tế điều chỉnh) trong tất cả các trường hợp mà nên quy định linh hoạt hơn theo hướng đã được thể hiện trong Khoản 3 Điều 4 Dự án Luật của Dự án Luật.

Tuy nhiên, chúng tôi đề nghị làm rõ thêm một số vấn đề sau:

Thứ nhất, đối với một số điều ước quốc tế do Chính phủ ký nhưng phải qua thủ tục phê chuẩn của Chủ tịch nước hoặc phê duyệt của Quốc hội thì cơ quan nào sẽ có thẩm quyền quy định việc áp dụng điều ước quốc tế, cơ quan ký hay cơ quan phê chuẩn, phê duyệt.

Thứ hai, đề nghị cần quy định tiêu chí hay điều kiện chung để xác định trường hợp nào được áp dụng trực tiếp hoặc một phần điều ước quốc tế, trường hợp nào không được áp dụng trực tiếp để làm căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền quyết định luôn việc áp dụng hoặc không áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế khi quyết định việc đàm phán, ký, phê chuẩn hoặc phê duyệt điều ước quốc tế.

Tóm lại đối với Điều 4 và đặc biệt là khoản 3 này, chúng tôi đề nghị Ban soạn thảo cần lưu tâm thêm và quy định cụ thể hơn, tránh trường hợp không rõ ràng, dễ tạo ra tình trạng tuỳ tiện quyết định theo từng trường hợp của cơ quan có thẩm quyền ký, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế.

5. Về vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật của Việt Nam

Chúng tôi nhất trí với giải trình được nêu trong Tờ trình về vấn đề này, theo đó vị trí của điều ước quốc tế đã được khẳng định thông qua quy định về các nguyên tắc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (Điều 3 Dự án Luật) và tại quy định về quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật trong nước (Điều 4 Dự án Luật).

6. Về việc báo cáo, trình xin ý kiến của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Quốc hội quy định tại khoản 3 Điều 3, khoản 3 Điều 9, khoản 4 và khoản 5 Điều 10

Các điều nêu trên đều quy định về một thủ tục là điều ước quốc tế, trong một số trường hợp, phải được báo cáo hoặc trình xin ý kiến của Chủ tịch nước (điểm b và c khoản 4 Điều 10) hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội (khoản 3 Điều 3, khoản 3 Điều 9, điểm d khoản 4 và khoản 5 Điều 10). Theo chúng tôi, các quy định nêu trên của Dự án Luật là chưa rõ ràng về giá trị pháp lý cũng như hậu quả pháp lý. Ví dụ, nếu quy định là Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến mà ý kiến của Uỷ ban thường vụ Quốc hội là không nhất trí với chủ trương đàm phán, ký kết hoặc gia nhập điều ước quốc tế thì sẽ xử lý thế nào? Cũng tương tự như vậy, khi Chính phủ báo cáo Chủ tịch nước trước khi đàm phán, ký điều ước quốc tế

Do đó, chúng tôi đề nghị cần quy định rõ trong Dự án Luật là trình xin ý kiến quyết định của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc của Quốc hội tuỳ từng trường hợp cụ thể, chứ không mập mờ là trình xin ý kiến.

7. Về thủ tục nội bộ cần xử lý trước khi quyết định đàm phán, ký điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước

Chúng tôi đề nghị cân nhắc thêm vấn đề này, đặc biệt là khi đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước mà lại có điều khoản trái với các quy định trong văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành hoặc điều ước quốc tế mà để thực hiện cần phải sửa đổi, bổ sung, huỷ bỏ hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội; hoặc trong trường hợp điều ước quốc tế liên quan đến vấn đề đặc biệt quan trọng như biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia … Đối với những trường hợp nêu trên cần có một quy trình, thủ tục chặt chẽ và rất thận trọng và bảo đảm thống nhất nội bộ trước khi đàm phán, ký kết.
Trên đây là một số ý kiến bước đầu của tôi đối với Dự án Luật ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Xin cảm ơn sự quan tâm của Ban Soạn thảo và các vị đại biểu Quốc hội.

Các văn bản liên quan