Phải bảo vệ quyền tài sản của người bị oan – Ông Hoàng Minh Tiến

Thứ Ba 13:53 17-06-2008


Đóng góp ý kiến vào việc xây dựng Luật Bồi thường nhà nước:

PHẢI BẢO VỆ QUYỀN TÀI SẢN CỦA NGƯỜI BỊ OAN

 Hoàng Minh Tiến
Số 10 ngõ Thống Nhất, Đại La, Tp Hà Nội

ĐT: 04.8694805; 0988092669


  
          Kính thưa: - Lãnh đạo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.
                              - Các đồng chí trong Ban Biên tập xây dựng Luật Bồi thường Nhà nước.
                              -  Kính thưa các quý vị đại biểu.
 
Bồi thường thiệt hại cho tôi (người bị cơ quan tiên shành tố tụng bắt giam, xét xử oan) là vụ đầu tiên thực hiện bồi thường theo Nghị quyết 388/2003/NQ-UBTVQH11 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Qua quá trình bồi thường cho tôi, có rất nhiều bất cập           I. Quá trình xử lý hình sự oan 

Vụ án hình sự oan đối với tôi xảy ra khi tôi là Phó chủ tịch Hội đồng XNK, Giám đốc điều hành Liên hiệp Khoa học sản xuất Việt Nam và là Giám đốc cửa hành XNK Đồng Tiến (DOTIMEXCO). 

Vụ án hình sự oan này thực chất là tranh chấp kinh tế liên quan đến khoản nợ 211 triệu đồng giữa cửa hàng Đồng Tiến và Tổng công ty Xây dựng Hà Nội, trong một hợp đồng liên doanh xuất khẩu da trâu bò theo kiểu lời cùng ăn, lỗ cùng chịu. Đôi bên thỏa thuận hạn trả nợ cuối cùng là 31/12/1992, nhưng chưa đến hạn thì tôi đã bị Công an Hai Bà Trưng bắt giam. 

- Ngày Chủ nhật, 22/11/1992, tôi bị Công an quận Hai Bà Trưng mời lên trụ sở làm việc. Từ đó cho đến 30/12/1993, tôi bị tạm giam với cáo buộc về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN" và "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân" (theo Điều 135 và 158 Bộ luật hình sự năm 1985). 

- Ngày 28-30/12/1993 TAND TP. Hà Nội  đã tuyên phạt Tôi 30 tháng tù cho hưởng án treo về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN". 

- Ngày 12/10/1994 TAND Tối cao đã huỷ án sơ thẩm của TAND Tp Hà Nội để điều tra, xét xử lại 

- Ngày 14,15 tháng 12/1995 TAND Tp Hà Nội xử sơ thẩm (lần thứ 2) tuyên Tôi không phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản XHCN". 

- Ngày 26/12/1995, VKSND Tp Hà Nội quyết định kháng nghị. 

- Ngày 14 và 15/6/1996, TAND Tối cao xử phúc thẩm và tuyên Tôi không phạm tội. 

          Ngay sau khi được minh oan (mặc dù Nghị quyết 388 chưa ban hành), Tôi đã gửi nhiều đơn yêu cầu bồi thường  theo Nghị định số 47/CP tới các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, không có cơ quan nào nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho tôi. 

          Nghị quyết 388 được UBTVQH khoá XI ban hành ngày 17/3/2003 thì đến ngày 13/5/2003, tôi lại có đơn yêu cầu đòi bồi thường nhưng đơn vẫn chưa được chấp nhận vì phải chờ Thông tư hướng dẫn. 

          Đơn của tôi chỉ được chấp nhận sau khi VKSND Tối cao, Bộ Công an, TAND Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC-BTP-BQP-BTC ngày 25/3/2004 hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết 388. 

          Sau khi có Thông tư 01, ngày 5/5/2004, tôi tiếp tục làm đơn đòi bồi thường gửi tới TAND Tp Hà Nội. 

          - Ngày  25/5/2004 TAND Tp Hà Nội trả lời rằng TAND TP. Hà Nội không chịu trách nhiệm bồi thường và chuyển hồ sơ sang VKSND Tp Hà Nội. 

          - Ngày 8/6/2004 VKSND Tp Hà Nội lại cho rằng thẩm quyền giải quyết là của TAND Tp Hà Nội và chuyển hồ sơ sang TAND Tp Hà Nội. 

          Tranh chấp về trách nhiệm bồi thường phải đến cuối tháng 6/2004 mới được giải quyết, sau khi có ý kiến của cơ quan trung ương. Kết quả cuối cùng là VKSND Tp Hà Nội có trách nhiệm bồi thường. 

          II. Việc giải quyết bồi thường cho tôi. 

          Ngày 28/7/2004, VKSND Tp Hà Nội đã tổ chức xin lỗi công khai đối với tôi tại nơi cư trú. 

          - Việc thương lượng giữa tôi và VKSND Tp Hà Nội được tiến hành trong các ngày: 10/8/2004; 12/8/2004. 

          Tôi yêu cầu VKSND Hà Nội bồi thường hơn 4 tỷ đồng cho 13 khoản nhưng đại diện VKSND Tp Hà Nội chỉ chấp nhận bồi thường gần 27,9 triệu đồng về tinh thần cho tôi cho 403 ngày bị tạm giam và hơn 906 ngày tại ngoại. 

          - Ngày 25/8/2004 VKSND Tp Hà Nội có công văn gửi tới tôi thông báo rằng thời gian thương lượng giải quyết bồi thường là 30 ngày đã hết. Trong trường hợp tôi có khiếu nại hay thắc mắc, thẩm quyền giải quyết tiếp theo thuộc về tòa án. 

           - Ngày 7/9/2004 VKSND Tp Hà Nội nối lại việc thương lượng về bồi thường cho Tôi nhưng vẫn không đạt được sự thống nhất. VKSND Tp Hà Nội vẫn chỉ chấp nhận gần  27,9 triệu đồng. 

          Khoản 5 Điều 3 Nghị quyết 388 quy định: "Việc bồi thường thiệt hại được tiến hành trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại với người bị oan, thân nhân của người bị oan hoặc đại diện hợp pháp của họ; nếu không thương lượng được thì người bị oan, thân nhân của người bị oan hoặc đại diện hợp pháp của họ có quyền yêu cầu toà án giải quyết". 

          Theo Nghị quyết 388 thì thương lượng đã thành thủ tục bắt buộc khi giải quyết bồi thường cho người bị oan. Tuy nhiên, trong quá trình thương lượng, hai bên chỉ thoả thuận được những khoản bồi thường cơ bản nhất, không thể trốn tránh đó bồi thường thiệt hại về tinh thần (số ngày giam giữ, số ngày tại ngoại) còn các khoản yêu cầu khác về vật chất, tài sản hầu hết không được chấp nhận.
 
          III. Về mức bồi thường 

          Thương lượng không thành, ngày 1/10/2004 Tôi chính thức khởi kiện VKSND Tp Hà Nội ra TAND quận Hai Bà Trưng.
          - TAND quận Hai Bà Trưng tổ chức nhiều buổi hoà giải nhưng hoà giải vẫn không thành. 

          - Ngày 2/6/2005 TAND Tp Hà Nội đã xét xử vụ kiện theo thủ tục sơ thẩm. Kết quả xét xử sơ thẩm về cơ bản không có gì khác so với việc thương lượng giữa hai bên trước đó. VKSND Tp Hà Nội chỉ bị tuyên buộc phải thanh toán cho tôi số tiền gần 27,9 triệu đồng và tiền công làm con dấu (của DOTIMEXCO) nếu tôi xuất trình hoá đơn hợp pháp chứng minh cho số tiền khắc dấu. Toà bác các yêu cầu khác của tôi. 

          - Ngày 9/6/2005 tôi làm đơn kháng cáo đề nghị TAND Tp Hà Nội xét xử phúc thẩm, yêu cầu buộc VKSND Tp Hà Nội phải bồi thường thiệt hại 13 khoản gồm 2,7 tỷ đồng và trả lại ngôi nhà số 6/295 Bạch Mai. 

          - Trong các ngày 28/2/2006 và ngày 01 đến 06/3/2006, TAND Tp Hà Nội đã mở phiên xử phúc thẩm vụ kiện. Kết quả xét xử phúc thẩm công nhận sự thoả thuận của tôi và VKSND Tp Hà Nội về khoản tiền bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần là hơn 33,6 triệu đồng và buộc VKSND Tp Hà Nội còn phải bồi thường thiệt hại về vật chất (gồm tiền thuê luật sư, tiền xe ôm thăm nuôi, tiền lương trong thời gian bị tạm giam) gần 11 triệu đồng. Tổng số tiền mà VKSND Tp Hà Nội phải thanh toán cho tôi chỉ gần 44,5 triệu đồng. 

          Tất cả các yêu cầu khác của tôi đều bị TAND Tp Hà Nội bác bỏ (bao gồm: thu nhập không thường xuyên của cửa hàng Đồng Tiến; tiền cấp dưỡng cho mẹ và 3 con chưa đến tuổi trưởng thành trong thời gian bị bắt giam oan, số tiền 17.295,99 USD bị ANIMEX chiếm giữ; chi phí đi Thái Lan; đồ dùng của gia đình như tivi, xe máy, cátxét; tài liệu, hồ sơ chưa trả trong quá trình giải quyết vụ án hình sự; ngôi nhà số 6/295 Bạch Mai, Tp Hà Nội). 

          - Tôi vẫn đang tiếp tục làm đơn khiếu nại. 

          IV. Kiến nghị: 

          1. Tôi đã rất vất vả trong quá trình đòi bồi thường. Khi đã tìm được cơ quan có trách nhiệm thì việc thương lượng giữa tôi với cơ quan có trách nhiệm bồi thường (VKSND Tp Hà Nội) không đạt được kết quả và tốn rất nhiều thời gian, thậm chí còn xảy ra căng thẳng giữa tôi và cơ quan có trách nhiệm bồi thường. Mặt khác, người trực tiếp thương lượng với người được bồi thường phải là người có đủ thẩm quyền đại diện "Nhà nước". Việc cơ quan có trách nhiệm bồi thường uỷ quyền cho một cán bộ chuyên môn sẽ làm hạn chế việc thương lượng về mức bồi thường. Luật Bồi thường nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa, đừng để những người bị oan như tôi lại tiếp tục gặp khó khăn trong việc đòi bồi thường. 

          2. Việc bồi thường thiệt do tổn thất về tinh thần thường không gặp phải khó khăn, nhưng những khoản bồi thường này không đáng là bao nhiêu nếu so sánh với những thiệt hại thực tế mà doanh nghiệp của tôi phải gánh chịu. Chính vì vậy, Luật bồi thường Nhà nước cần quy định cụ thể hơn việc xác định cũng như trách nhiệm bồi thường về vật chất, tài sản, quy định rõ việc bồi thường thiệt hại về vật chất, thiệt hại do thu nhập thực tế bị mất, đặc biệt là trình tự, thủ tục trả lại tài sản đã bị thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu. Ngoài ra, Luật Bồi thường Nhà nước cần xây dựng tiêu chí cụ thể để tính các thiệt hại về uy tín, cơ hội kinh doanh, thương hiệu... của doanh nghiệp.

Đặc biệt là Luật này cần quy định rõ thủ tục để cho tôi đòi được những tài sản mà ai cũng biết là mất nhưng đến nay vẫn chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm trả lại cho tôi, đó là các tài sản mà các cơ quan tố tụng đã kê biên, tịch thu và những tài sản vì bị bắt giam oan nên tôi không thực hiện được quyền tài sản của mình trong việc đòi lại.

Tôi đề nghị Nhà nước có quy định cụ thể, rõ ràng, yêu cầu TAND Tối cao, VKSND Tối cao trả lại cho gia đình tôi và doanh nghiệp của tôi các tài sản sau theo quy định của pháp luật hiện hành:

-    17.000 USD do ANIMEX chiếm giữ;

-         Tiền lương khi tôi còn đang làm việc.

-         Ngôi nhà số 6/295 Bạch Mai, Tp Hà Nội bị kê biên trong quá trình tôi bị bắt giam oan nhưng hiện nay vẫn chưa được mở kê biên.

Đề nghị các cơ quan chức năng xác định rõ đầu mối chịu trách nhiệm trả lại cho tôi các tài sản nói trên, đặc biệt là cơ quan có trách nhiệm giải quyết trả lại cho tôi ngôi nhà số 6/296 Bạch Mai.

Điểm mấu chốt cuối cùng, Dự án luật này quy định những trường hợp đã được bồi thường thì không áp dụng luật này(?). Đối với trường hợp của tôi, vụ việc đã được giải quyết xong thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, chúng tôi không đồng ý và làm đơn đề nghị giám đốc thẩm để bảo vệ tài sản của mình nhưng đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Tôi để nghị Luật này cần có những quy định cụ thể hơn nữa và tạo điều kiện thuận lợi để những người đang kiến nghị giám đốc thẩm như tôi đòi lại được tài sản hợp pháp của mình.

Kính chúc các đồng chí mạnh khoẻ, xin trân trọng cảm ơn!

Các văn bản liên quan