Ông Vũ Ánh Dương – Tổng Thư ký VIAC góp ý Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự tại Hội thảo VCCI ngày 21/4/2015

Thứ Ba 15:20 21-04-2015

Góp ý Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi

(Các quy định liên quan đến Hòa giải và Trọng tài)

Ls Vũ Ánh Dương – VIAC

Dự thảo

Góp ý

CHƯƠNG III
THẨM QUYỀN CỦA TÒA ÁN

Mục 1
NHỮNG VỤ VIỆC DÂN SỰ
THUỘC THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

Điều 27. Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (sửa đổi, bổ sung)

1.      Tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam.

2.      Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản.

3.      Tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự.

4.      Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 31 của Bộ luật này.

5.      Tranh chấp về thừa kế tài sản.

6.      Tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

7.      Tranh chấp về bồi thường thiệt hại do áp dụng biện pháp ngăn chặn hành chính không đúng theo pháp luật cạnh tranh.

8.      Tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai.

9.      Tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật.

10.  Tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

11.  Tranh chấp liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

12.  Tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, thanh toán phí tổn đăng ký mua tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.

13.  Các tranh chấp khác về dân sự, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác.

Bình luận:

Việc liệt kê vừa không đầy đủ vừa không hợp lý vì:

-          Khoản 2 Điều 4 Dự thảo Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.

-          Khoản 2 Điều 19 Dự thảo Bộ luật dân sự cũng quy định: 2. Tòa án không được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”.

-          Phạm vi thẩm quyền không phù hợp với Điều 1, theo đó phạm vi điều chỉnh của BLTTDS là các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự).

-          Tranh chấp kinh doanh, thương mại không được liệt kê trong Điều 27.

Kiến nghị:

-          Sử dụng phương pháp loại trừ, theo đó Tòa án có thẩm quyền giải quyết tất cả các tranh chấp liên quan đến dân sự, kinh doanh, thương mại, trừ các tranh chấp hành chính, hình sự, lao động.

CHƯƠNG XXXI
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VIỆC DÂN SỰ LIÊN QUAN ĐẾN
HOẠT ĐỘNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Điều 408. Những việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (giữ nguyên)

1.   Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên.

2.   Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

3.   Hủy quyết định trọng tài.

4.   Giải quyết khiếu nại quyết định của Hội đồng trọng tài về thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài.

5.   Thu thập chứng cứ.

6.   Triệu tập người làm chứng.

7.   Đăng ký phán quyết trọng tài.

8.   Các việc dân sự khác mà pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam có quy định.

Điều 408. Những việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án (giữ nguyên)

1.      Chỉ định, thay đổi Trọng tài viên đối với trọng tài vụ việc.

2.      Áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời.

3.      Hủy phán quyết trọng tài.

4.      Giải quyết khiếu nại đối với quyết định về thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài.

5.      Thu thập chứng cứ.

6.      Triệu tập người làm chứng.

7.      Đăng ký Phán quyết trọng tài vụ việc.

8.      Các việc dân sự khác mà pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam có quy định.

Điều 409. Thủ tục giải quyết (giữ nguyên)

Thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam.

Điều 409. Thủ tục giải quyết (giữ nguyên)

Thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại Việt Nam. Trong trường hợp pháp luật trọng tài dẫn chiếu tới Bộ luật này thì các quy định của Bộ luật này được áp dụng.

Bình luận:

Luật Trọng tài thương mại có một số quy định dẫn chiếu tới BLTTDS. Ví dụ: Khoản 4 Điều 53 Luật TTTM quy định như sau: “4. Trình tự, thủ tục áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự”, trong khi đó BLTTDS lại dẫn chiếu tới pháp luật trọng tài thương mại. Vì vậy cần có quy định mang tính hướng dẫn để tránh xung đột luật, tránh trường hợp không xác định được luật điều chỉnh để giải quyết vấn đề.

CHƯƠNG XXXII

THỦ TỤC CÔNG NHẬN KẾT QUẢ HÒA GIẢI NGOÀI TÒA ÁN

Điều 410. Công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án (mới)

Kết quả hòa giải của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ hòa giải theo quy định của pháp luật ngoài Tòa án giữa cơ quan, tổ chức, cá nhân tự nguyện không trái quy định pháp luật và đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ được Tòa án công nhận khi có yêu cầu.

Nhất trí với Dự thảo

Bình luận:

Đây là một điểm mới và có ý nghĩa rất quan trọng trong việc khuyến khích phát triển hòa giải. Quy định này cụ thể hóa chủ trương của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị: “Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó”.

Điều 411. Điều kiện công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án (mới)

1.      Người tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

2.      Người tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý.

3.      Các bên hoàn toàn tự nguyện, không có tranh chấp sau khi có kết quả hòa giải.

4.      Nội dung thỏa thuận hòa giải không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ.

Điều 411. Điều kiện công nhận thỏa thuận hòa giải ngoài Tòa án (mới)

1.   Bên tham gia thỏa thuận hòa giải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

2.   Người tham gia thỏa thuận hòa giải là người có quyền, nghĩa vụ đối với nội dung thỏa thuận hòa giải. Trường hợp nội dung thỏa thuận hòa giải liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người thứ ba thì phải được người thứ ba đồng ý.

3.   Các bên hoàn toàn tự nguyện.

4.   Nội dung thỏa thuận hòa giải không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không nhằm trốn tránh nghĩa vụ.

Bình luận:

- Nhà nước đã có chính sách khuyến khích phát triển hòa giải thì cần có quy định phù hợp với tính chất của phương thức hòa giải đó là tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, tự quyết và tự chịu trách nhiệm của các bên. Khi các bên đã tự nguyện ký thỏa thuận hòa giải thì các bên bị ràng buộc bởi thỏa thuận.

Tuy nhiên, với việc Dự thảo đưa ra điều kiện để công nhận kết quả hòa giải quy định tại khoản 3 Điều 411 đó là “không có tranh chấp sau khi có kết quả hòa giải” sẽ vô hiệu hóa phương thức hòa giải, thậm chí có thể bị bên thiếu thiện chí lạm dụng để kéo dài thời gian phải thi hành nghĩa vụ, làm cho việc hòa giải trở thành tốn kém thời gian, chi phí và không có ý nghĩa.

Kiến nghị:

Bỏ điều kiện “không có tranh chấp sau khi có kết quả hòa giải”. Dự thảo chỉ cần cần đưa ra điều kiện nội dung thỏa thuận hòa giải không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội là đủ.

Điều 412. Hồ sơ yêu cầu công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án (mới)

1.      Đơn yêu cầu ghi rõ ngày tháng năm yêu cầu, người yêu cầu, tên cơ quan, tổ chức hòa giải, nội dung và kết quả hòa giải.

2.      Kèm theo đơn yêu cầu là biên bản hòa giải và các tài liệu liên quan đến nội dung hòa giải.

Điều 412. Hồ sơ yêu cầu công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án (mới)

1.      Đơn yêu cầu ghi rõ ngày tháng năm yêu cầu, người yêu cầu, tên cơ quan, tổ chức hòa giải, nội dung và kết quả hòa giải.

2.      Kèm theo đơn yêu cầu là Kết quả hòa giải và các tài liệu liên quan đến nội dung hòa giải (nếu có).

Bình luận:

-          Cơ chế, thủ tục hòa giải rất đa dạng, linh hoạt, có thể có biên bản hoặc không có biên bản. Vì vậy không nên coi Biên bản hòa giải là một điều kiện về thủ tục.

-          Tòa án chỉ dựa vào Kết quả hòa giải để ra quyết định công nhận hoặc không công nhận.

Điều 413. Thủ tục công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án (mới)

1. Sau khi nhận được đơn yêu cầu và tài liệu kèm theo, Tòa án phải vào sổ thụ lý và thông báo cho những người liên quan biết về việc Tòa án đã thụ lý đơn yêu cầu trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu và tài liệu kèm theo. Người tham gia thỏa thuận, người có quyền, nghĩa vụ liên quan theo yêu cầu của Tòa án phải có ý kiến về yêu cầu công nhận thỏa thuận hòa giải ngoài Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo.

2. Việc chuẩn bị xét đơn yêu cầu và những người tham gia phiên họp giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 362 và Điều 363 của Bộ luật này. Trường hợp người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến nội dung hòa giải được Tòa án triệu tập hợp lệ vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì Tòa án hoãn phiên họp.

3. Thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết yêu cầu công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án được thực hiện theo quy định tại Điều 365 của Bộ luật này.

4. Người tham gia thỏa thuận hòa giải không có ý kiến khác và đủ điều kiện quy định tại Điều 411 của Bộ luật này thì Tòa án ra quyết định công nhận kết quả hòa giải.

5. Tòa án ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án trong các trường hợp sau đây:

a) Quá thời hạn cung cấp chứng cứ quy định tại điểm a khoản 2 Điều 362 của Bộ luật này mà người tham gia hòa giải, người có quyền, nghĩa vụ liên quan không bổ sung theo yêu cầu của Tòa án;

b) Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến nội dung kết quả hòa giải được Tòa án triệu tập hợp lệ vắng mặt lần thứ hai;

c) Không đủ điều kiện quy định tại khoản 4 Điều này

4. Quyết định công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án hoặc quyết định không công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án được gửi cho người tham gia thỏa thuận hòa giải, người có quyền, nghĩa vụ liên quan biết.

5. Quyết định công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, Quyết định không công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án có hiệu lực thi hành ngay sau khi ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Quyết định công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, Quyết định không công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án có thể bị kháng nghị theo giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này.

Trường hợp Tòa án ra quyết định không công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, hoặc quyết định công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án bị hủy thì đương sự có quyền hòa giải lại về việc giải quyết vụ việc hoặc khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật này.

Bình luận:

-          Thủ tục công nhận kết quả hòa giải cần đơn giản, chánh Tòa án hóa. Theo đó, cần đưa ra nguyên tắc đó là Tòa án không xét lại nội dung vụ tranh chấp, chỉ cần kiểm tra việc hòa giải có vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội không để quyết định công nhận hay không công nhận kết quả hòa giải. Vì vậy, không nên có thủ tục xem xét tài liệu chứng cứ; không nên có thủ tục người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến; không nên có thủ tục người làm chứng trình bày ý kiến; người giám định trình bày kết luận giám định v.v... Do đó, việc áp dụng các quy định tại Điều 362, Điều 363 và Điều 365 của Dự thảo cho thủ tục công nhận kết quả hòa giải là không phù hợp.

-          Việc quy định cơ chế giám đốc thẩm, tái thẩm quyết định công nhận của Tòa án sẽ làm cho phương thức hòa giải trở thành tốn kém, kéo dài. Hòa giải là phương thức nhanh chóng, đơn giản. Bản chất của hòa giải là phương thức giải quyết tranh chấp ngoài tòa án được các bên lựa chọn và tự giải quyết. Hơn nữa, tranh chấp giữa các bên là tranh chấp dân sự thì nên để các bên tự quyết. Các bên đã tự nguyện lựa chọn hòa giải thì Nhà nước nên khuyến khích và tôn trọng thỏa thuận của các bên. Nhà nước không nên can thiệp và lo thay cho các bên.

Kiến nghị: Bỏ quy định  “Quyết định công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án, Quyết định không công nhận kết quả hòa giải ngoài Tòa án có thể bị kháng nghị theo giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật này”.

Điều 443. Những trường hợp không công nhận (sửa đổi, bổ sung)

1. Tòa án chỉ từ chối công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài khi xét thấy các chứng cứ do bên phải thi hành cung cấp cho Tòa án để phản đối yêu cầu công nhận là có căn cứ, hợp pháp và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Các bên ký kết thỏa thuận trọng tài không có năng lực để ký kết thỏa thuận đó theo pháp luật được áp dụng cho mỗi bên;

b) Thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi quyết định đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thỏa thuận đó;

c) Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thi hành không được thông báo kịp thời và hợp thức về việc chỉ định Trọng tài viên, về thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại Trọng tài nước ngoài hoặc vì nguyên nhân chính đáng khác mà không thể thực hiện được quyền tố tụng của mình;

d) Phán quyết củaTrọng tài nước ngoài được tuyên về một vụ tranh chấp không được các bên yêu cầu giải quyết hoặc vượt quá yêu cầu của các bên ký kết thỏa thuận trọng tài. Trong trường hợp có thể tách được phần quyết định về vấn đề đã được yêu cầu và phần quyết định về vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại Trọng tài nước ngoài thì phần quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết có thể được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam;

đ) Thành phần của Trọng tài nước ngoài, thủ tục giải quyết tranh chấp của Trọng tài nước ngoài không phù hợp với thỏa thuận trọng tài hoặc với pháp luật của nước nơi phán quyết của Trọng tài nước ngoài được tuyên, nếu thỏa thuận trọng tài không quy định về các vấn đề đó;

e) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài chưa có hiệu lực bắt buộc đối với các bên;

g) Phán quyết của Trọng tài nước ngoài bị cơ quan có thẩm quyền của nước nơi quyết định đã được tuyên hoặc của nước có pháp luật đã được áp dụng huỷ bỏ hoặc đình chỉ thi hành.

2. Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Tòa án Việt Nam xét thấy:

a) Theo pháp luật Việt Nam, vụ tranh chấp không được giải quyết theo thể thức trọng tài;

b) Việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Điều 443. Những trường hợp không công nhận (sửa đổi, bổ sung)

1.      Việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài có thể bị từ chối, theo yêu cầu của bên phải thi hành, chỉ khi nào bên đó nộp cho Tòa án bằng chứng rằng:

(a)    Các bên ký thỏa thuận trọng tài không có đủ năng lực, hoặc thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý theo pháp luật của nước mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo pháp luật của nước nơi phán quyết đã được tuyên, nếu các bên không chọn pháp luật áp dụng cho thỏa thuận đó; hoặc

(b)   Nếu bên phải thi hành phán quyết không được thông báo thích đáng về việc chỉ định trọng tài viên hay về tố tụng trọng tài hoặc do một nguyên nhân gì khác không thể trình bày vụ việc của mình; hoặc

(c)    Phán quyết giải quyết một tranh chấp không được dự liệu trong các điều khoản của đơn yêu cầu đưa ra trọng tài giải quyết hay nằm ngoài các điều khoản đó, hoặc phán quyết trọng tài gồm các quyết định về các vấn đề ngoài phạm vi yêu cầu giải quyêt tại trọng tài, tuy nhiên, nếu các quyết định về các vấn đề được yêu cầu giải quyết bằng trọng tài có thể tách rời khỏi các quyết định về các vấn đề không được yêu cầu, thì phần của quyết định trọng tài gồm các quyết định về vấn đề được yêu cầu có thể được công nhận và thi hành; hoặc

(d)   Thành phần Hội đồng Trọng tài hoặc thủ tục trọng tài không phù hợp với thỏa thuận của các bên hoặc, nếu không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật của nước nơi tiến hành trọng tài; hoặc

(e)    Phán quyết chưa có hiệu lực ràng buộc đối với các bên, hoặc bị huỷ hay đình hoãn bởi cơ quan có thẩm quyền của nước hoặc theo luật của nước nơi quyết định được lập.

2.      Phán quyết của Trọng tài nước ngoài cũng không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam, nếu Tòa án Việt Nam xét thấy:

(a)    Đối tượng của vụ tranh chấp không thể giải quyết được bằng trọng tài theo pháp luật của Việt Nam; hoặc

(b)   Việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài sẽ trái với trật tự cộng của Việt Nam.

Bình luận:

 Dự thảo đã có một số sửa đổi phù hợp hơn với quy định của Công ước New York 1958 về công nhận và thi hành các phán quyết trọng tài nước ngoài (Công ước) mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là việc đã chuyển nghĩa vụ chứng minh từ bên được thi hành (theo BLTTDS hiện hành) sang bên phải thi hành (theo Dự thảo). Tuy nhiên vẫn còn một căn cứ từ chối quy định trong Dự thảo khác với Công ước đó là quy định phán quyết trọng tài trái với “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam”, trong khi Công ước lại quy định “trật tự công”. Việc quy định vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nhưng không đưa ra định nghĩa hoặc giải thích thế nào là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam dẫn đến việc các Tòa án đưa ra các giải thích khác nhau, thậm chí mở rộng phạm vi, làm cho nhiều phán quyết trọng tài không được công nhận.

Kiến nghị:

-          Sử dụng khái niệm “trật tự công” để đảm bảo phù hợp với Công ước và Dự thảo BLDS sửa đổi;

-          Dự thảo BLDS sửa đổi đã bỏ thuật ngữ “các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam” và đưa ra thuật ngữ “trật tự công”.

-          Tham khảo căn cứ Tòa án từ chối việc công nhận và thi hành Phán quyết trọng tài tại Điều V Công ước.

Điều 454. Thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam (sửa đổi, bổ sung)

1. Những vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam:

a) Vụ án dân sự mà đối tượng tranh chấp là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam;

b) Vụ án dân sự mà các bên đương sự có văn bản thỏa thuận lựa chọn Tòa án Việt Nam để giải quyết;

c) Vụ án dân sự mà các bên đương sự được quyền lựa chọn Tòa án nước ngoài hoặc Trọng tài, bao gồm Trọng tài nước ngoài, Trọng tài quốc tế, Trọng tài vụ việc hoặc Trọng tài quy chế để giải quyết theo quy định của pháp luật của Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nhưng đã không lựa chọn; nguyên đơn yêu cầu Tòa án Việt Nam giải quyết và bị đơn cũng không có văn bản phản đối thẩm quyền của Tòa án Việt Nam;

d) Vụ án dân sự mà các bên đương sự đã lựa chọn Tòa án nước ngoài hoặc Trọng tài, bao gồm Trọng tài nước ngoài, Trọng tài quốc tế, Trọng tài vụ việc hoặc Trọng tài quy chế để giải quyết nhưng một bên đương sự yêu cầu Tòa án Việt Nam giải quyết và Tòa án xét thấy bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài, phán quyết của Trọng tài sẽ không được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc thoả thuận trọng tài giữa các đương sự bị vô hiệu hoặc thoả thuận trọng tài đó không thể thực hiện được.

đ) Vụ án hôn nhân và gia đình giữa các công dân Việt Nam chỉ mang quốc tịch Việt Nam cư trú ở nước ngoài;

e) Vụ án hôn nhân và gia đình giữa các công dân Việt Nam với nhau nhưng một bên đương sự cư trú ở nước ngoài;

g) Vụ án hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam;

h) Vụ án hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam với người nước ngoài cư trú ở nước ngoài;

i) Vụ án hôn nhân và gia đình giữa người nước ngoài với nhau cư trú tại Việt Nam;

2. Những việc dân sự có yếu tố nước ngoài sau đây thuộc thẩm quyền giải quyết riêng biệt của Tòa án Việt Nam:

a) Các việc dân sự thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này.

b) Yêu cầu xác định một sự kiện pháp lý xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam;

c) Tuyên bố công dân Việt Nam mất tích, đã chết nếu việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;

d) Tuyên bố người nước ngoài cư trú tại Việt Nam bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, mất năng lực hành vi dân sự nếu việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;

đ) Tuyên bố người nước ngoài cư trú tại Việt Nam mất tích, đã chết nếu việc tuyên bố đó có liên quan đến việc xác lập quyền, nghĩa vụ của họ trên lãnh thổ Việt Nam;

e) Công nhận tài sản có trên lãnh thổ Việt Nam là vô chủ hoặc công nhận quyền sở hữu của người đang quản lý đối với bất động sản vô chủ trên lãnh thổ Việt Nam.

Bình luận:

-          Việc quy định tranh chấp có đối tượng là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam thuộc thẩm quyền riêng biệt của Tòa án Việt Nam là mâu thuẫn với quy định tại Điều 2 Luật Trọng tài thương mại, theo đó thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài gồm: (1) Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; (2) Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; (3) Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài.

-          Tranh chấp bất động sản nếu có một bên có hoạt động thương mại và có mục đích sinh lời sẽ được coi là tranh chấp thương mại, nên cũng thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.

-          Quy định tại khoản 1(b) là thừa vì khi các bên đã thỏa thuận thì thuộc thẩm quyền đương nhiên của Tòa án.

-          Quy định tại khoản 1(c) và 1(d) có nguy cơ Tòa án nước ngoài không công nhận bản án của Tòa án Việt Nam do Tòa án Việt Nam không có thẩm quyền.

Kiến nghị:

-          Sửa khoản 1(a) như sau: Vụ án dân sự mà đối tượng tranh chấp là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam. Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của Bộ luật này và luật chuyên ngành thì quy định của luật chuyên ngành được áp dụng.

-          Bỏ khoản 1(b).

-          Xem xét lại quy định tại khoản 1(c) và 1(d).

Các văn bản liên quan