Ông Trương Thanh Đức – Trọng tài viên VIAC, Phó TGĐ Ngân hàng TMCP Hàng hải: Chế định pháp nhân, đại diện và một số chế định khác của BLDS

Thứ Sáu 14:21 01-03-2013

Hội thảo về Tổng kết Bộ luật Dân sự năm 2005: VCCI-VIAC,Hà Nội 01/3/2013

BÌNH LUẬN MỘT SỐ CHẾ ĐỊNH TRONG

BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005

                                                                               Luật sư Trương Thanh Đức

                                                                                                       

1.            Về chế định quyền sở hữu[1]

1.1.    Vè quyền sở hữu bất động sản:

Việc chỉ công nhận quyền sở hữu duy nhất của Nhà nước đối với đất đai là trái với quyền sở hữu toàn dân về đất đai trong Hiến pháp năm 1992, đi ngược lại bản chất của quyền sở hữu và nguyện vọng của đa số, gây ra những hệ quả pháp lý đặc biệt phức tạp và để lại di chứng lâu dài.

Theo quy định tại khoản 1, Điều 174 “Bất động sản và động sản” của Bộ luật Dân sự, ngoài đất đai, nhà, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất, thì còn các tài sản khác cũng có thể là bất động sản. Tuy nhiên cho đến nay chưa có quy định nào của pháp luật xác định “tài sản khác” nào là bất động sản, kể cả tàu bay, tàu biển. Vậy, khái niệm bất động sản không chính xác hay cách giải thích luật sai?

1.2.    Về quyền sở hữu chung trong nhà chung cư:

Khoản 2, Điều 225 “Sở hữu chung trong nhà chung cư” của Bộ luật Dân sự quy định: “Chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc quản lý, sử dụng phần diện tích và thiết bị chung” là không chính xác, vì phần quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu các căn hộ có thể khác nhau phụ thuộc vào tỷ lệ phần diện tích sở hữu. Một chủ sở hữu căn hộ 50 m2 không thể cũng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau với một chủ sở hữu căn hộ 300m2. Trường hợp này sẽ càng vô lý khi suy diễn các chủ sở hữu sẽ có quyền “ngang nhau” đối với quyền sử dụng diện tích mặt đất theo quy định tại khoản 3, Điều 225: “Trong trường hợp nhà chung cư bị tiêu huỷ thì chủ sở hữu các căn hộ trong nhà chung cư có quyền sử dụng diện tích mặt đất của nhà chung cư theo quy định của pháp luật.”

1.3.    Về quyền sở hữu tầng hầm nhà chung cư:

Theo đúng quy định tại khoản 1, Điều 225 “Sở hữu chung trong nhà chung cư” của Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 3, Điều 70 “Phần sở hữu riêng và phần sở hữu chung trong nhà chung cư” của Luật Nhà ở năm 2006; đoạn 2, điểm b, khoản 3, Điều 22 “Nguyên tắc mua bán nhà, công trình xây dựng” của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006, thì tầng hầm của nhà chung cư dùng làm “nơi để xe”, là phần diện tích dùng chung, mặc nhiên là sở hữu chung, chứ không thể là sở hữu riêng của chủ đầu tư.

Nhưng do Bộ luật Dân sự nói riêng, các Luật khác nói chung thật rõ, không khẳng định cụ thể, cho nên đã taộ ra cuộc chiến pháp lý dai dẳng bất phân thắng bại, trong khi đó Bộ Xây dựng lại giải thích theo hướng trái luật, gây bất lợi cho người người mua nhà, đồng thời là người tiêu dùng, bên yếu thế hơn.

1.4.    Về quyền sở hữu chung của vợ chồng:

Pháp luật định ra nguyên tắc tài sản của vợ chồng có trong thời kỳ hôn nhân là sở hữu chung, nhưng lại thiếu các quy định cụ thể về thủ tục, cách thức cần thiết để kiểm soát việc đó, dẫn đến giao dịch dân sự trên thực tế về tài sản liên quan vợ chồng gặp nhiều rắc rối, rủi ro pháp lý.

Đều là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng, nhưng những tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng, thì việc định đoạt bắt buộc phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Trong khi đó, nếu là tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu như cổ phiếu, giấy tờ có giá khác, thẻ tiết kiệm, vàng, tiền gửi,… thì đương nhiên chỉ cần 1 người định đoạt

Đặc biệt, trong các trường hợp một trong hai vợ chồng hoàn toàn tự nguyện bán, tặng cho và đặc biệt là thế chấp phần tài sản là nhà ở của mình thì cũng cần xem xét công nhận một cách hợp lý (tương tự như cơ chế thừa kế hay chia tài sản chung) thay vì tuyên vô hiệu 100% như hiện nay. Việc tuyên vô hiệu toàn bộ là phủ nhận ý chí định đoạt của chủ sở hữu, khuyến khích kẻ lật lọng, phủ nhận hợp đồng, trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ đã tự nguyện cam kết.

1.5.    Về quyền sở hữu tài sản khác:

Cho đến nay, vẫn chưa có văn bản quy định rõ ràng những tài sản nào thuộc loại phải bắt buộc và không phải bắt buộc đăng ký quyền sở hữu. Như vậy, sẽ không có cơ sở pháp lý để xác định một số đặc điểm pháp lý đặc biệt quan trọng như: Các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu, đòi lại động sản, thời điểm chuyển quyền sở hữu, thời điểm chịu rủi ro, Thời điểm có hiệu lực của hợp đồng tặng cho.

Một loạt phương tiện vận tải như tàu bay, tàu thuỷ, ô tô,… là những tài sản giá trị rất lớn, cũng chỉ được cấp Giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông, chứ không phải là giấy chứng nhận quyền sở hữu.

1.6.    Về việc hạn chế quyền sở hữu:

Bộ luật không có quy định rõ về cách thức, thủ tục pháp lý để công khai và bảo đảm việc chuyển giao nghĩa vụ bảo đảm các quyền cho người mua, người tiếp nhận bất động sản đối với các quyền địa dịch tại các điều từ Điều 273 đến Điều 278.

Bộ luật quy định về việc hạn chế quyền sở hữu trong trường hợp mua trả chậm, trả dần (Điều 461), nhưng lại không quy định và không có biện pháp ràng buộc, nên đã dẫn đến tình trạng người mua trả chậm trả dần tài sản có thể mang bán, cầm cố, thế chấp tài sản đó, và người mua, người nhận cầm cố, thế chấp sẽ bị thiệt hại do tài sản vẫn thuộc sở hữu của người bán đầu tiên.

Bộ luật quy định “trong thời hạn chuộc lại, bên mua không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, thế chấp, cầm cố tài sản” (Điều 462), nhưng vì bên mua đã có quyền sở hữu đối với tài sản nên vẫn giao dịch được, mà không có gì ngăn cấm. Rủi ro sẽ lại vô tình rơi vào người mua cuối cùng. Vì vậy, cần phải xem lại tính hợp lý của quy định này, vì người mua đã là chủ sở hữu nhưng lại không được quyền định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình.

Bộ luật quy định “Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng” (Điều 670). Trường hợp này vướng mắc thứ nhất là ở chỗ không thể xác định thế nào là một phần di sản. Thứ hai là quy định không được chia thừa kế, nhưng lại không có những quy định cụ thể, do đó về nguyên tắc thì vẫn được đăng ký sang tên quyền sở hữu (nhất là bất động sản chưa có giấy tờ sở hữu). Và trong trường hợp đó, nếu không quy định cụ thể, thì người đứng tên trên giấy tờ sở hữu di sản có thể bán những tài sản này mà không có cách gì để bảo vệ người mua.

1.7.    Về hạn chế quyền trổ cửa:

Việc trổ cửa đối với công trình xây dựng giáp ranh giới với bất động sản khác là vấn đề vô cùng quan trọng và xảy ra vướng mắc rất nhiều trên thực tế. Tuy nhiên Bộ luật Dân sự quy định quá sơ sài tại khoản 1, Điều 171 “Hạn chế quyền trổ cửa”: “Chủ sở hữu nhà chỉ được trổ cửa ra vào, cửa sổ quay sang nhà bên cạnh, nhà đối diện và đường đi chung theo quy định của pháp luật về xây dựng.”

Quy chuẩn xây dựng Việt Nam, năm 1996 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng (đã hết hiệu lực), thì có quy định về điều kiện mở cửa sổ, cửa thông hơi, nhưng theo Quy chuẩn hiện hành từ năm 2008, thì lại không có bất cứ hạn chế nào. Như vậy, chủ sở hữu nhà tha hồ trổ cửa sang nhà khác, bất kể khoảng cách và vị trí nào mà không phạm luật. Và như vậy, thì mặc dù có xuất hiện hành vi rõ ràng “xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh.”, thì chủ sở hữu cũng không có cơ sở pháp lý cụ thể để có thể bảo vệ mình.

2.            Về chủ thể quan hệ dân sự:[2]

2.1.    Chủ thể quan hệ dân sự là cá nhân:

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định chủ thể quan hệ dân sự gồm có cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác. Hai trong số các chủ thể khác đã được quy định cụ thể là hộ gia đình và tổ hợp tác. Cả 4 chủ thể đã được quy định cụ thể là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình và tổ hợp tác đều còn nhiều điểm không hợp lý, không rõ ràng. Những chủ thể khác nữa, thì đang bị bỏ ngỏ hoặc quy định mập mờ, coi như chưa có quy định.

Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định chủ thể cá nhân tham gia quan hệ pháp luật dân sự phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự, trong đó yếu tố năng lực hành vi dân sự của cá nhân còn rất nhiều điểm bất hợp lý.

Bộ luật Dân sự còn bỏ ngỏ việc quy định năng lực hành vi của người chưa thành niên từ đủ 9 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định trong 6 điều tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000) và từ đủ 14 tuổi trở lên (để làm căn cứ pháp lý cho các trường hợp quy định về cấp Chứng minh nhân dân theo Nghị định số 05/1999/NĐ-CP; chịu trách nhiệm hình sự theo Bộ luật Hình sự năm 1999; quản lý, định đoạt tài sản riêng của con theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; bị bắt, tạm giữ, tạm giam theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003; khai báo việc lưu trú theo Luật Cư trú năm 2006; xác minh về nhân thân theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008; bị xử phạt vi phạm hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012; học nghề, tập nghề theo Bộ luật Lao động năm 2012. Ngoài ra còn thiếu hẳn những quy định về các trường hợp người đã thành niên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự do bệnh tật hoặc nhược điểm vể thế chất, tinh thần, nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân sự. 

2.2.    Về chủ thể quan hệ dân sự là pháp nhân:[3]

Xác định chủ thể quan hệ dân sự là pháp nhân hay không là một điều đặc biệt quan trọng trong giao dịch dân sự. Tuy nhiên, việc xác định tư cách pháp nhân tren thực tế lại vô cùng khó khăn, nhất là đối với các các tổ chức phi kinh tế, trong đó có các cơ quan, tổ chức hành chính, nhà nước. Gần như phải dựa hoàn toàn vào các văn bản quy phạm pháp luật hoặc quyết định thành lập xác định các tổ chức cụ thể nào đó có hay không có tư cách pháp nhân. Lý do là 4 điều kiện của pháp nhân quy định tại Điều 84 của Bộ luật Dân sự là không hợp lý, không đặc định.

Khoản 5, Điều 144 “Phạm vi đại diện”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Quy định này đã vô hiệu hoá một loại hợp đồng thế chấp tài sản của người thứ ba.

Trong giao dịch dân sự, pháp nhân hoàn toàn được và phải được uỷ quyền cho cá nhân và pháp nhân khác. Tuy nhiên do khoản 1, Điều 143 “Người đại diện theo uỷ quyền”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Cá nhân, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có thể uỷ quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.”, cho nên nhiều tổ chức công chứng và toà án vin vào chữ “người” mà cho rằng cá nhân, pháp nhân chỉ được uỷ quyền cho cá nhân, mà không được uỷ quyền cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác. Khoản 1, Điều 583 “Uỷ quyền lại”, Bộ luật Dân sự quy định: “Bên được uỷ quyền chỉ được uỷ quyền lại cho người thứ ba, nếu được bên uỷ quyền đồng ý hoặc pháp luật có quy định.” Căn cứ vào đây, nhiều nơi không chấp nhận giao dịch được uỷ quyền tiếp cho người thứ 3 (và sau thứ 3 trở đi), mặc dù được các cấp uỷ quyền trước đó đồng ý. Vì vậy, Bộ luật Dân sự cần quy định rộng hơn và rõ hơn để tránh tình trạng uỷ quyền hợp pháp, hợp lý của pháp nhân nói riêng, các chủ thế khác nói chung không được thừa nhận.

2.3.    Về chủ thể quan hệ dân sự là hộ gia đình[4]

Chủ thể hộ gia đình đã tạo ra vô vàn rắc rối pháp lý trên thực tế vì không có cơ sở pháp lý để xác định thế nào là hộ gia đình. Cùng một tài sản, cùng một chủ thể tham gia giao dịch, nhưng lúc này thì là là cá nhân, lúc khác lại phải là hộ gia đình, khi này thì chủ hộ đương nhiên được đại diện cho hộ gia đình, khi khác thì lại không được. Ngoài ra, cũng khó có thể tách bạch giữa tài sản của Hộ gia đình sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh với tài sản để sinh hoạt.

Muốn xác định được hộ gia đình có đủ điều kiện để tham gia các giao dịch dân sự một cách hợp pháp không, thì việc quan trọng nhất là phải xác định được các thành viên của hộ gia đình. Nhưng vì không có cơ sở pháp lý rõ ràng để xác định thành viên của hộ gia đình, cho nên trên thực tế, mỗi công chứng viên, mỗi tổ chức công chứng suy luận và “quyết” một kiểu khác nhau khi chứng nhận giao dịch hợp đồng liên quan đến tài sản của hộ gia đình. Ngoài sổ hộ khẩu tại thời điểm tài sản được hình thành và thời điểm giao dịch, còn phải suy đoán qua truy tìm nhiều yếu tố pháp lý khác, dựa trên quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng. Điều này đã, đang và sẽ gây ra rất nhiều khó khăn và rủi ro pháp lý đối với các giao dịch mà chủ thể là hộ gia đình.

Tốt nhất là cần phải ghi rõ họ tên của tất cả những người có quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên Giấy chứng nhận bất động sản (kể cả đã cấp trước đây) thay vì chỉ ghi tên một người hoặc 2 vợ chồng chủ hộ, để tránh những hậu quả pháp lý vô cùng rắc rối, phức tạp và nguy hại, đã, đang và sẽ xảy ra trong nhiều chục năm nữa.

Hợp lý nhất là cần phải loại bỏ hộ gia đình, với tư cách là một chủ thể trong quan hệ dân sự trong Bộ luật Dân sự cũng như chủ thể sử dụng đất trong Luật Đất đai. Từ đó, cần bỏ hết chủ thể hộ gia đình trong các quan hệ dân sự khác. Không thể duy trì chế định hộ gia đình nói chung, quyền sử dụng đất của hộ gia đình nói riêng một cách tù mù và bế tắc như kiểu chế định sở hữu về đất đai.

2.4.    Về chủ thể quan hệ dân sự là các tổ chức khác:[5]

Bộ luật Dân sự và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác thường xuyên đề cập đến các cơ quan và tổ chức, nhưng chưa thấy giải thích thế nào là cơ quan và thế nào là tổ chức. Trong khi đó, điều kiện để cá nhân và pháp nhân tham gia quan hệ dân sự đã được Bộ luật Dân sự quy định cụ thể, nhưng các cơ quan, tổ chức, nhất là tổ chức không phải là pháp nhân, thì chưa có quy định. Do đó, không xác định được điều kiện về năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự của các chủ thể này.

Hầu hết các tổ chức, tức là các chủ thể khác của quan hệ dân sự, không được Bộ luật Dân sự cũng như các đạo luật xác định rõ có hay không có tư cách pháp nhân, như Ban quản trị nhà chung cư, Ban quản lý công trình. Các tổ chức không có tư cách pháp nhân thì phải đáp ứng được những yêu cầu nào của chủ thể quan hệ dân sự, như năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự thì mới được tham gia quan hệ dân sự hợp pháp? Và tổ chức không có tư cách pháp nhân, thì chịu trách nhiệm dân sự đến đâu trong quan hệ dân sự? Vì vậy, Bộ luật Dân sự cần có sự phân biệt về việc tham gia giao dịch dân sự của hai loại hình tổ chức có và không có tư cách pháp nhân.

3.            Về chế định hợp đồng:[6]

3.1.    Các loại hợp đồng:

Bộ luật Dân sự năm chỉ quy định về 13 loại hợp đồng dân sự thông dụng, trong khi đó còn hàng chục loại hợp đồng dân sự rất thông dụng khác chưa được đề cập đến hoặc không được chỉ rõ trong Bộ luật Dân sự. Một số hợp đồng thông dụng trong Bộ luật Dân sự thì lại trùng lặp với quy định tại một số đạo luật khác, dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột nhau, không biết áp dụng theo luật nào, như hợp đồng mua bán nhà ở chẳng hạn. Vì vậy cần xem xét việc bổ sung hoặc loại bỏ một số loại hợp đồng trong Bộ luật Dân sự.

3.2.    Về hiệu lực của hợp đồng:

Đoạn 2, khoản 2, Điều 401 “Hình thức hợp đồng dân sự”, Bộ luật Dân sự cũng quy định “Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.” Tức là, Bộ luật không quy định hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu như vi phạm về hình thức, nhưng vì quy định không rõ ràng, cho nên trên thực tế rất nhiều trường hợp đã bị Toà án tuyên vô hiệu chỉ vì vi phạm về hình thức.

Bộ luật Dân sự đã gây nhiễu loạn, vô tình tiếp tay cho những kẻ giao dịch lật lọng, bội ước, thậm chí phạm tội, bằng quy định bắt buộc phải công chứng, bắt buộc phải đăng ký thế chấp nhà đất, nhưng lại vô giá trị pháp lý trong nhiều trường hợp. Bên cạnh đó, hầu hết đều hiểu nhầm lẫn, đã dẫn đến tuyên mọi hợp đồng thế chấp nhà đất nếu không công chứng hoặc không đăng ký thế chấp thì đều là vô hiệu, dù không hề có liên quan đến bên thứ ba.

4.            Về chế định giao dịch bảo đảm:[7]

4.1.    Về thế chấp nhà ở và đất đai:

Trong khi Bộ luật Dân sự không có quy định hạn chế, thì Điều 114 “Điều kiện thế chấp nhà ở”, Luật Nhà ở năm 2005 quy định: Chủ sở hữu nhà ở được thế chấp nhà ở để bảo đảm thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ nếu giá trị của nhà ở đó lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ nhưng chỉ được thế chấp tại một tổ chức tín dụng. Đây là quy định hoàn toàn bất hợp lý ở 2 nội dung, giá trị tài sản và nơi nhận thế chấp. 

Tương tự, Luật Đất đai năm 2003 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2009) cũng thu hẹp Bộ luật Dân sự bằng quy định tài sản và quyền sử dụng đất thuộc quyền sở hữu (sử dụng) hợp pháp của cá nhân và các tổ chức kinh tế chỉ được thế chấp để vay vốn, mà không được phép thế chấp để phục vụ các nhu cầu khác như bảo đảm nghĩa vụ cho các hợp đồng mua bán, đầu tư, xây dựng hay phục vụ nhu cầu đời sống, kể cả vay vốn để học tập, xây nhà ở hay chữa bệnh cứu người.

4.2.    Về việc thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ trả nợ của người khác:

Hình thức bảo đảm này được thực hiện một cách rất phổ biến và hợp pháp, hợp lý tại các ngân hàng. Tuy nhiên trên thực tế đang xảy ra mâu thuẫn và rủi ro pháp lý rất đáng lo ngại. Lý do là còn rất nhiều người, kể cả các thẩm phán, chuyên gia pháp lý, hiểu sai quy định về biện pháp bảo lãnh trong Bộ luật Dân sự năm 2005 theo quy định cũ trong Bộ luật Dân sự năm 1995, tức là vẫn còn bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba.

Trong các cơ quan hành pháp không chấp nhận việc công chứng và đăng ký giao dịch bảo lãnh quyền sử dụng đất nói riêng, tài sản nói chung thì cơ quan tư pháp (Toà án) lại tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp vì cho rằng phải là hợp đồng bảo lãnh. Hậu quả là làm kiểu gì cũng sai và nguy cơ hợp đồng bảo đảm bị tuyên vô hiệu vẫn đang lơ lửng.

4.3.    Về việc một người đồng thời ký với 2 tư cách trong hợp đồng bảo đảm:

Khoản 5, Điều 144 “Phạm vi đại diện”, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người đại diện không được xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”, vì không có quy định và hưỡng dẫn cụ thể, nên đang bị hiểu một cách máy móc, dẫn tới đã và đang có nguy cơ bị tuyên vô hiệu một loạt hợp đồng thế chấp 3 bên, mà một người đồng thời ký với 2 tư cách, bên bảo đảm và bên vay vốn.

4.4.    Về biện pháp bảo lãnh:

Vì quy định không rõ trong Bộ luật Dân sự, đã dẫn đến sự nhầm lẫn một cách phổ biến và tai hại, tuyên vô hiệu hợp đồng vì cho rằng việc cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba, thì phải gọi là hợp đồng bảo lãnh (như Bộ luật Dân sự năm 1985) trong khi đúng ra phải là hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba, chứ không thể là hợp đồng bảo lãnh.

5.      Về sự kiện bất khả kháng:[8]

Bất khả kháng là một vấn đề vô cùng quan trọng liên quan đến quyền, nghĩa vụ trong giao dịch dân sự, nhưng đã không được quy định trong Bộ luật Dân sự. Hay nói đúng hơn, có định nghĩa “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép” nhưng chi được quy định tại Điều 161 “Thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự” trong chương “Thời hiệu” của Bộ luật Dân sự. Như vậy, không đương nhiên mang áp dụng cho các quan hệ hợp đồng, giao dịch dân sự.

6.      Về lãi suất cho vay và chậm trả:[9]

Nếu cứ theo đúng quy định của Bộ luật Dân sự (các điều 305, 404, 576, 709), thì lãi suất cho vay tối đa trong hơn 2 qua chỉ là 13,5%/năm, còn thấp hơn trần lãi suất huy động ngắn hạn của ngân hàng trong một số thời điểm là 14%/năm. Thực tế hầu hết việc cho vay đều vượt xa trần lãi suất này, gấp tới vài lần đến vài chục lần, trong đó có các ngân hàng và công ty tài chính.

Đây là những quy định trái khoáy đến mức ngang ngược nhất của pháp luật, chống lại thực tế cuộc sống, cho nên cũng bị vi phạm một cách phổ biến nhất, ngang nhiên nhất. Kể cả lãi suất cơ bản tại thời điểm này tăng lên 14-15%/năm, thì giới hạn lãi suất cho vay và quá hạn của Bộ luật Dân sự cũng vẫn không thể chấp nhận được.

---------------------

Địa chỉ liên hệ

Luật sư Trương Thanh Đức

Số 1502, Chung cư 249A Thuỵ Khuê, Tây Hồ, HN

E-mail: luatsutruongthanhduc@gmail.com

ĐT: 090.345.9070



[1]    “Bình luận chế định quyền sở hữu trong Bộ luật Dân sự năm 2005” - Luật sư Trương Thanh Đức, Tham luận Hội thảo sửa đổi Bộ luật Dân sự Bộ Tư pháp 29-9-2010.

[2]    “Bình luận Chủ thể quan hệ dân sự trong Bộ luật Dân sự năm 2005 – Luật sư Trương Thanh Đức, Tham luận Hội thảo Tổng kết thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005, HN 05-12-2012.

[3]     “Bình luận Chế định pháp nhân và đại diện pháp nhân trong Bộ luật Dân sự năm 2005”, Luật sư Trương Thanh Đức - Hội thảo về Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ Tư pháp và JICA tổ chức ngày 30-8-2011.

[4]    “Bình luận Chế định hộ gia đình trong Bộ luật Dân sự năm 2005” , Luật sư Trương Thanh Đức - Hội thảo Các quy định về chủ thể, giao dịch, và đại diện trong Bộ luật Dân sự năm 2005 – Định hướng sửa đổi, bổ sung - Bộ Tư pháp, Hà Nội 5 - 6/6/2012.

[5]    “Bình luận Chủ thể quan hệ dân sự trong Bộ luật Dân sự năm 2005 – Luật sư Trương Thanh Đức, Tham luận Hội thảo Tổng kết thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005, HN 05-12-2012.

[6]    “Bình luận Chế định hợp đồng trong Bộ luật Dân sự năm 2005” - Luật sư Trương Thanh Đức, Tham luận Hội thảo, Bộ Tư pháp 25-5-2012.

[7]    Bình luận Chế định Bảo đảm tiền vay đối với hoạt động tín dụng ngân hàng (Thực tiễn thi hành pháp luật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong kinh doanh ngân hàng nhìn từ góc độ ngân hàng thương mại – Bất cập và các giải pháp hoàn thiện) - Luật sư Trương Thanh Đức, Chuyên đề số 8 thuộc Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2012: “Pháp luật về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự trong kinh doanh ngân hàng – thực trạng và giải pháp”, Chủ nhiệm Đề tài: TS. Võ Đình Toàn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp.), tháng 01-2013.

[8]    “Bình luận Báo cáo rà soát Bộ luật Dân sự năm 2005” - Luật sư Trương Thanh Đức, Tham luận Hội thảo Báo cáo Rà soát Bộ luật Dân sự, VCCI, 14-9-2011.

[9]    “Bình luận Báo cáo rà soát Bộ luật Dân sự năm 2005” - Luật sư Trương Thanh Đức, Tham luận Hội thảo Báo cáo Rà soát Bộ luật Dân sự, VCCI, 14-9-2011.v

Các văn bản liên quan