Luật Doanh nghiệp tiếp tục bị “gặm nhấm”

Thứ Tư 00:14 23-05-2007

LUẬT DOANH NGHIỆP TIẾP TỤC BỊ "GẶM NHẤM"

                                                                                
Luật gia: Cao Bá Khoát
Giám đốc Công ty TNHH
Tư vấn Doanh nghiệp K & Cộng sự 

1. Luật Đầu tư "gặm nhấm" Luật Doanh nghiệp 
Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư là hai luật luôn đi đôi với nhau để điều chỉnh tất cả các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp như: thành lập doanh nghiệp, tổ chức quản lý của doanh nghiệp, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp... Tuy nhiên chỉ mới hơn một năm kể từ ngày hai luật này có hiệu lực (ngày 01 tháng 07 năm 2006), trong quá trình thực hiện hai luật trên, doanh nghiệp gặp phải rất nhiều vướng mắc. Việc một số quy định trong hai luật mâu thuẫn và chồng chéo nhau làm cho doanh nghiệp lúng túng trong quá trình hoạt động của mình. Nghiên cứu hai luật này chúng ta thấy rằng có rất nhiều vấn đề cần phải làm sáng tỏ để cho hoạt động kinh doanh được điều chỉnh thống nhất, tránh tình trạng doanh nghiệp khó xử khi phải đứng giữa hai luật. Sau khi nghiên cứu hai luật và các văn bản dưới luật có liên quan, chúng tôi có một số phát hiện sau:


Như ta đã biết phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp là việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của doanh nghiệp; còn phạm vi điều chỉnh của Luật Đầu tư là hoạt động đầu tư nhằm thực hiện mục đích kinh doanh. Rõ ràng phạm vi điều chỉnh về nguyên tắc thì hoàn toàn tách bạch nhau nhưng khi đi vào chi tiết cụ thể thì lại chồng chéo nhau. Liên quan đến vấn đề hoạt động của doanh nghiệp, đáng lẽ ra Luật Đầu tư chỉ cần điều chỉnh việc cấp GCNĐT nhằm xác nhận những ưu đãi mà dự án được hưởng, nhưng trên thực tế Luật Đầu tư lại điều chỉnh cả việc cấp GCNĐKKD cho doanh nghiệp bằng một quy định: GCNĐT đồng thời là GCNĐKKD. Như vậy đâu phải Luật Đầu tư đã điều chỉnh cả việc thành lập một doanh nghiệp, lấn sân Luật Doanh nghiệp, tạo ra những vướng mắc rất khó giải quyết, chẳng hạn như một doanh nghiệp có GCNĐT đồng thời là GCNĐKKD có quyền thay đổi ĐKKD tại cơ quan ĐKKD được hay không? Đây là một câu hỏi rất khó trả lời vì trong con mắt của Luật Doanh nghiệp thì những doanh nghiệp trên chưa được cấp GCNĐKKD. Rõ ràng việc không tách bạch thẩm quyền của hai Luật này đã dẫn đến khó khăn cho doanh nghiệp. Phải chăng khi soạn thảo 2 luật, ta đã không xem xét đến những vướng mắc của doanh nghiệp khi thực hiện 2 luật.

Luật Đầu tư còn phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Nhà đầu tư trong nước phải xin dự án đầu tư theo Luật Đầu tư và phải thành lập tổ chức kinh tế theo Luật Doanh nghiệp; còn nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần có giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Sau khi nhận được giấy chứng nhận đầu tư, nhà đầu tư cũng không vì thế mà có thể cắt đuôi được các giấy phép khác như: giấy phép xây dựng, giấy phép của cơ quan quản lý đất đai, giấy phép của cơ quan quản lý môi trường và các giấy phép khác liên quan đến hoạt động của dự án đầu tư đó. Như vậy giấy chứng nhận đầu tư không thay thế được các loại giấy phép trên. Vậy thử hỏi doanh nghiệp cần giấy chứng nhận đầu tư để làm gì? Cứ theo nguyên tắc mà nói thì đã được cấp giấy chứng nhận đầu tư tức là đã đủ điều kiện để đầu tư, tức là tất cả các điều kiện về dự án đầu tư đó đều đã hợp pháp. Vậy tại sao lại buộc nhà đầu tư lại phải xin các loại giấy phép khác. Quản lý nhà nước về đầu tư trong trường hợp này đã thống nhất hay chưa?

2. Không chỉ có Luật Đầu tư "gặm nhấm" Luật Doanh nghiệp
Hiện nay có rất nhiều luật tiếm quyền đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp bằng cách gắn giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh vào một giấy phép hoạt động. Liên quan đến tình trạng này, ngoài Luật Đầu tư ra thì còn có Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng khoán. Có thể kể ra dưới đây một số điều khoản:

Điều 65 Luật Kinh doanh bảo hiểm quy định: Giấy phép thành lập và hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

Khoản 2 Điều 59 Luật Chứng khoán quy định: Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ. Giấy phép này đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Các luật trên đã lợi dụng Khoản 2 Điều 3 của Luật Doanh nghiệp để gặm nhấm quyền đăng ký kinh doanh của Luật Doanh nghiệp. Các luật chỉ cần thêm hai từ “đồng thời” là coi như hoàn thành việc vô hiệu lực từng phần Luật Doanh nghiệp để giành lấy quyền đăng ký kinh doanh cho ngành mình, làm cho Luật Doanh nghiệp đang bị "gặm nhấm". Hệ quả tất yếu của việc này không gì khác hơn là sự rối loạn, không thống nhất trong việc quản lý các doanh nghiệp ở tầm vĩ mô. Thông tin về doanh nghiệp không được quản lý thống nhất: Bộ Kế hoạch và đầu tư thì quản lý các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, Bộ Tài chính thì quản lý các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm. Mỗi bộ chuyên ngành giành quyền quản lý các doanh nghiệp mà mình cấp giấy phép hoạt động bằng quy định giấy phép hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Đáng lẽ ra nhiệm vụ chủ yếu của các bộ chuyên ngành này là chỉ nên dừng lại ở việc cấp giấy phép hoạt động cho các doanh nghiệp, còn quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là của cơ quan đăng ký kinh doanh, phục vụ lợi ích chung cho nhà đầu tư.

3. Bàn về hai chữ “đồng thời”
Chúng ta không thể không tự đặt câu hỏi hai chữ “đồng thời” ở đây có nghĩa là gì? Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì “đồng thời” có nghĩa là: (hai việc xảy ra hoặc hai tính chất tồn tại) cùng trong một thời gian (NXB Đà Nẵng, 1997).
Với thực tế đang xảy ra hiện nay thì có thể hiểu giấy phép hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh do các cơ quan chủ quản cấp có hai giá trị: giá trị thứ nhất là nó bảo đảm việc hoạt động của doanh nghiệp là hợp pháp và giá trị thứ hai là nó xác nhận tư cách pháp nhân cho một doanh nghiệp. Chúng ta không tài nào hiểu nổi tại sao một giấy phép hoạt động lại có thể có quyền năng này trong khi doanh nghiệp đó chưa được đăng ký kinh doanh. Việc dùng chữ đồng thời ở đây quả là một công đôi việc, vừa cấp phép hoạt động cho doanh nghiệp, vừa tiếm quyền của cơ quan đăng ký kinh doanh. Hậu quả của việc này là một tương lai có thể dễ dàng dự báo được, đó là sự chồng chéo trong vấn đề quản lý doanh nghiệp. Không biết rằng một doanh nghiệp đã được thành lập theo Luật Doanh nghiệp, sau đó lại được cấp giấy phép hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm sẽ do cơ quan nào quản lý: Bộ Kế hoạch và đầu tư hay Bộ Tài chính?

Một hệ quả nữa mà hai từ “đồng thời” mang lại là việc doanh nghiệp hoạt động đa ngành nghề, vừa hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm, vừa hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, vừa hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, vừa hoạt động đầu tư trong lĩnh vực dầu khí thì sẽ được đăng ký kinh doanh như thế nào? Cơ quan nào sẽ quản lý doanh nghiệp này? Việc lập chi nhánh của doanh nghiệp này sẽ do cơ quan nào cấp phép? Không biết liệu cơ quan đăng ký kinh doanh có đồng ý cho doanh nghiệp lập chi nhánh hay không khi mà doanh nghiệp không đăng ký kinh doanh mà chỉ có các loại giấy phép hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

Một ví dụ khác nữa để làm rõ hơn sự rắc rối mà hai chữ “đồng thời” này mang lại đó là: Tỉnh này cấp GCNĐT đồng thời là GCNĐKKD, doanh nghiệp sang tỉnh khác lập chi nhánh thì không được chấp nhận. Lý do là doanh nghiệp đã không thực hiện việc ĐKKD theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Cơ sở pháp lý mà cơ quan ĐKKD viện dẫn là Khoản 3 Điều 50 Luật Đầu tư: Nhà đầu tư trong nước có dự án đầu tư gắn với việc thành lập tổ chức kinh tế thì thực hiện đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp, pháp luật có liên quan và thực hiện thủ tục đầu tư theo quy định của Luật này. Hậu quả là doanh nghiệp bị trả hồ sơ về làm lại. Khi doanh nghiệp về tỉnh đã cấp GCNĐT đồng thời là GCNĐKKD thì tỉnh trả lời là đã thực hiện đúng thủ tục đầu tư theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 và các Khoản 3, 4 Điều 41 Nghị định 108/2006/NĐ-CP.
Chúng ta đã coi giấy chứng nhận đầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy phép hoạt động đồng thời là giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Vậy chúng ta có thể coi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đồng thời là giấy chứng nhận đầu tư, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đồng thời là giấy phép hoạt động có được không? Câu trả lời ở đây rõ ràng là không; bởi vì:

- Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh xác lập địa vị pháp lý của chủ thể kinh doanh, tức là doanh nghiệp, trong khi giấy chứng nhận đầu tư chỉ xác lập tính hợp pháp của một hành vi kinh doanh của doanh nghiệp. Giấy chứng nhận đầu tư gắn với một dự án, còn giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh gắn với một doanh nghiệp, mà doanh nghiệp có thể có nhiều dự án. Cấp giấy chứng nhận đầu tư đồng thời với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh có nghĩa là đã đồng nhất một dự án với một doanh nghiệp.

- Giấy phép hoạt động do cơ quan chủ quản cấp có giá trị như là một bảo đảm pháp lý cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một số lĩnh vực cần phải xin phép, cần có điều kiện kinh doanh. Giấy phép này khẳng định doanh nghiệp đã có đủ điều kiện để hoạt động trong lĩnh vực đó. Giấy phép này không thể có đủ quyền năng để xác lập tư cách pháp nhân cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ có tư cách pháp nhân khi được cơ quan đăng ký kinh doanh cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.

 

4. Một số kiến nghị
a.  Để thống nhất trong việc quản lý nhà nước về doanh nghiệp, để cho việc quản lý doanh nghiệp phù hợp với thực tế hiện nay, trong bối cảnh một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đa ngành nghề mà mỗi ngành nghề lại do mỗi cơ quan khác nhau quản lý, chúng ta cần phải quán triệt một số quan điểm sau đây:

*   Cần phải trả lại thẩm quyền đăng ký kinh doanh cho Luật Doanh nghiệp. Cơ quan đăng ký kinh doanh phải là cơ quan duy nhất có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Các cơ quan khác chỉ có chức năng kiểm soát điều kiện hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực mình phụ trách.
*   Ban hành một văn bản hướng dẫn thực hiện áp dụng thống nhất về đăng ký kinh doanh đối với tất cả các ngành nghề, không để tình trạng các luật chuyên ngành lấn sân Luật Doanh nghiệp, tạo ra sự chồng chéo trong việc quản lý doanh nghiệp.

b.  Xác định rõ nhiệm vụ của cơ quan đăng ký kinh doanh, thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký kinh doanh từ Trung ương đến cấp tỉnh, huyện và đổi tên là: Cơ quan đăng ký doanh nghiệp.

*               Cấp Trung ương là Tổng cục Đăng ký doanh nghiệp
*               Cấp Tỉnh là Chi cục đăng ký doanh nghiệp.
*               Cấp huyện là Phòng đăng ký doanh nghiệp.

Hệ thống cơ quan đăng ký doanh nghiệp nên trực thuộc Chính phủ để có thể quản lý được doanh nghiệp một cách có hệ thống.

c. Coi việc cấp giấy chứng nhận đầu tư, cấp các loại giấy phép hoạt động là những hoạt động độc lập với việc đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp. Nhận thức rõ rằng việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là nhằm xác lập tư cách pháp nhân cho doanh nghiệp. Nó hoàn toàn khác với việc cho phép doanh nghiệp hoạt động trong một ngành nghề, lĩnh vực nào đó.

d. Thực hiện thống nhất tư duy đã hoạt động kinh doanh trước tiên phải đăng ký kinh doanh để xác lập tư cách pháp nhân của chủ thể kinh doanh sau đó cấp giấy phép hoạt động ngành nghề gì thì cấp.

Thiết nghĩ việc làm trên là rất cần kíp trong bối cảnh hiện nay. Nếu không giải quyết nhanh và triệt để sẽ sớm dẫn đến việc Luật Doanh nghiệp sẽ mất hiệu lực. Đừng để Luật Doanh nghiệp bị "gặm nhấm" và cần sớm thống nhất nhận thức chung trong Quốc hội khi thông qua các văn bản luật!

Các văn bản liên quan