Góp ý Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh

Thứ Tư 07:14 17-09-2025

Kính gửi: Bộ Tư pháp

Trả lời Công văn số 791/GM-BTP của Bộ Tư pháp về việc đề nghị tham gia Hội đồng thẩm định đối với Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh (sau đây gọi tắt là Dự thảo), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có một số ý kiến sơ bộ như sau:

  1. Về Danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện quy định tại văn bản cấp nghị định

Theo quy định tại khoản 2 Điều 4, khoản 9 Điều 7 Dự thảo, Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện sẽ quy định tại văn bản cấp nghị định.

Quy định này cần được cân nhắc, xem xét dưới các góc độ sau:

– Việc quy định Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư nhằm mục tiêu đảm bảo tập hợp được tất cả các ngành, nghề kinh doanh có điều kiện hiện hành. Việc công khai tại luật này thực hiện đúng tinh thần Nhà nước công bố rõ các ngành nghề cấm kinh doanh, kinh doanh có điều kiện, còn lại người dân, doanh nghiệp được làm làm những gì mà pháp luật không cấm. Các luật sau ban hành thêm ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện đồng thời phải sửa Danh mục tại Luật Đầu tư. Danh mục quy định tại Luật sẽ kiểm soát được việc quy định về ngành nghề kinh doanh có điều kiện, điều kiện kinh doanh ở các văn bản cấp dưới luật. Đây được xem là thành công của Luật Đầu tư từ 2014 cho đến nay.

– Nếu Danh mục quy định tại Nghị định, sẽ không kiểm soát được tình trạng bổ sung thêm các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, nhất là việc bổ sung ngành nghề đó lại xuất phát từ các văn bản cấp dưới luật (nghị định khác). Bởi vì, theo nguyên tắc về hiệu lực pháp lý, các nghị định có hiệu lực pháp lý ngang nhau và nghị định ban hành sau sẽ ưu tiên được áp dụng nếu quy định khác nhau giữa các nghị định. Mặt khác, việc ban hành văn bản cấp nghị định sẽ nhanh chóng và không được kiểm soát chặt chẽ như ban hành văn bản cấp luật. Điều này có thể dẫn tới tình trạng, ngành, nghề kinh doanh có điều kiện sẽ được bổ sung một cách tùy nghi, không được kiểm soát chặt chẽ và doanh nghiệp sẽ không thể nhận biết được các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện có trên thực tế;

– Nghị định quy định về Danh mục sẽ khiến cho Danh mục này trở nên ít ý nghĩa. Nếu xem đây là Danh mục tập hợp tất cả các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, những ngành nghề không có trong Danh mục này sẽ không được xem xét là ngành nghề kinh doanh có điều kiện thì Danh mục này sẽ không khả thi. Vì như phân tích ở trên, các luật, nghị định ban hành sau sẽ dễ dàng ban hành các ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện và các ngành nghề này sẽ không có trong Danh mục và sẽ được ưu tiên áp dụng. Nếu kỳ vọng Danh mục này sẽ kiểm soát được việc ban hành ngành, nghề kinh doanh có điều kiện thì sẽ không hiệu quả nếu nó chỉ ở trong văn bản ở cấp nghị định.

Thực tế, trong hệ thống pháp luật kinh doanh cũng có Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện quy định theo Luật Thương mại năm 2005. Nhưng từ khi ra đời, Danh mục này gần như không được áp dụng bởi sự lỗi thời và không có giá trị hiệu lực khi không được cập nhật thường xuyên, không có cơ chế kiểm soát việc bổ sung, sửa đổi Danh mục và cũng không có mục tiêu rõ ràng. Nếu Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện quy định tại văn bản cấp nghị định, nhiều khả năng cũng có thể rơi vào tình trạng như Danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện.

Trong bối cảnh, Đảng, Nhà nước đang có chính sách cải cách mạnh mẽ về thủ tục hành chính, điều kiện đầu tư kinh doanh, cắt giảm chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp để thúc đẩy môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi hơn, cần thiết phải có chính sách để kiểm soát việc ban hành ngành, nghề kinh doanh có điều kiện một cách chặt chẽ và hiệu quả hơn. Việc ban hành Danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư là một trong những biện pháp kiểm soát đó, đồng thời với việc ràng buộc trách nhiệm giải trình, chứng minh chặt chẽ hơn khi có đề xuất bổ sung ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Do đó, đề nghị giữ nguyên như quy định hiện hành quy định Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tại Luật Đầu tư.”.

  1. Về thủ tục chấp thuận nhà đầu tư và các phương thức lựa chọn nhà đầu tư

So với hiện hành, Dự thảo có sự điều chỉnh về quy định liên quan đến các dự án phải chấp thuận chủ trương đầu tư. Dự thảo bổ sung quy định về các dự án không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư.

Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 26 Dự thảo “Nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư trên cơ sở trúng đấu giá quyền sử dụng đất, trúng đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất (bao gồm trường hợp nhà đầu tư được chỉ định thầu theo quy định pháp luật đấu thầu và trường hợp khu đất tổ chức đấu giá, đất thầu có có sự khác biệt về mục đích sử dụng đất trước và sau khi đấu giá, đấu thầu)” thuộc trường hợp không phải chấp thuận chủ trương đầu tư. Quy định này đang được hiểu, các dự án đầu tư sau khi trúng đấu giá, trúng đấu thầu sẽ không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư. Tức là, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư được thực hiện sau thủ tục đấu giá, đấu thầu.

Khoản 2 Điều 25 Dự thảo quy định, việc lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư theo hình thức “đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai”, “đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư theo quy định của pháp luật về đấu thầu” được thực hiện sau khi chấp thuận chủ trương đầu tư, trừ trường hợp dự án đầu tư không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư. Theo quy định này, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư sẽ thực hiện trước khi thực hiện các thủ tục đấu giá, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư. Có nghĩa là, khi nhà đầu tư đã được lựa chọn theo hình thức đấu giá, đấu thầu thì sẽ không phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án nữa.

Điều 27, Điều 28 Dự thảo quy định về các dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu đối chiếu thì những dự án quy định tại điểm b khoản 1 Điều 26 cũng sẽ không thuộc trường hợp quy định tại Điều 27, Điều 28.

Như vậy, giữa các quy định từ Điều 25 đến Điều 28 Dự thảo đang không rõ và chưa thống nhất về dự án không thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư trường hợp lựa chọn nhà đầu tư trong trường hợp đấu giá, đấu thầu. Để đảm bảo tính rõ ràng và thuận lợi, đề nghị cân nhắc quy định, đối với những trường hợp đấu giá, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thì không cần phải chấp thuận chủ trương đầu tư trừ những dự án thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư của Thủ tướng Chính phủ tại Điều 27, thuộc diện chấp thuận chủ trương đầu tư của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tại Điều 28.

  1. Thủ tục đầu tư ra nước ngoài

Theo quy định tại Mục 2 Chương V Dự thảo các dự án có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên phải thực hiện thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Nhà đầu tư phải thực hiện điều chỉnh Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài khi: thay đổi hình thức đầu tư; thay đổi vốn đầu tư ra nước ngoài; nguồn vốn đầu tư, hình thức vốn đầu tư; thay đổi địa điểm thực hiện hoạt động đầu tư đối với các dự án đầu tư yêu cầu phải có địa điểm đầu tư; thay đổi mục tiêu chính của hoạt động đầu tư ra nước ngoài.

So với quy định hiện hành, Dự thảo đã đơn giản nhiều thủ tục liên quan đầu tư ra nước ngoài như: bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài; giới hạn chỉ những dự án có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên mới phải làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài thay vì bất kì dự án nào cũng phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận này.

Mặc dù, Dự thảo đã có nhiều cải cách tạo thuận lợi hơn về thủ tục đầu tư ra nước ngoài, nhưng việc vẫn giữ yêu cầu phải cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với dự án đầu tư có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng trở lên cần được cân nhắc ở các điểm sau:

– Yêu cầu các dự án có nguồn vốn từ tư nhân phải thực hiện Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài là chưa phù hợp và hoàn toàn không rõ về mục tiêu quản lý. Ngay cả hoạt động đầu tư trong nước, không phải hoạt động đầu tư nào cũng yêu cầu phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, thì tất cả hoạt động đầu tư ra nước ngoài đều phải xin giấy phép để được đầu tư ra nước ngoài là chưa hợp lý. Trong khi, các điều kiện đầu tư lại do pháp luật nước ngoài quy định, không phải là pháp luật Việt Nam. Điều này tạo gánh nặng rất lớn về thủ tục cho nhà đầu tư, nhất là khi có sự thay đổi trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư cũng phải thực hiện thủ tục để điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài.

– Nếu có những lo ngại liên quan đến ngoại hối đã có sự quản lý của hệ thống pháp luật về ngoại hối.

Việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài sẽ là hình thức hạn chế đáng kể đến hoạt động đầu tư của nhà đầu tư và đi ngược lại chính chủ trương “Nhà nước khuyến khích đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường; tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản trị và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.” đang ghi nhận tại khoản 1 Điều 42 Dự thảo.

Đề nghị cân nhắc bỏ cơ chế quản lý theo hướng cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài đối với các dự án đầu tư ra nước ngoài.

Trên đây là một số ý kiến sơ bộ của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đối với Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh. Rất mong quý Cơ quan cân nhắc để chỉnh sửa, hoàn thiện.

Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Cơ quan.

Các văn bản liên quan

Dự thảo Luật Đầu tư kinh doanh