Góp ý của VCCI về Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về bảo vệ quyền SHTT

Thứ Ba 14:10 04-07-2006


PHÒNG THƯƠNG MẠI
VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
................................................
Số:   1686  /PTM-PC


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
...................................................
Hà Nội, ngày 27 tháng 6 năm 2006

 

Kính gửi: Bộ Khoa học Công nghệ


  Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam nhận được công văn số 1411/BKHCN-PC ngày 06 tháng 6 năm 2006 đề nghị góp ý Dự thảo Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo về quyền sở hữu trí tuệ. Sau khi nghiên cứu Dự thảo, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có một số góp ý sau:

I. Sự cần thiết ban hành Nghị định

So với pháp luật về sở hữu trí tuệ trước đây, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 quy định một cách toàn diện và đầy đủ hơn đối tượng, phạm vi, phương thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam, do đó xu hướng tăng cường bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam trong thời gian tới là tất yếu. Tuy vậy, nhiều quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ, nhất là các quy định về phương thức bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp hành chính vẫn còn nhiều điểm chưa cụ thể, rõ ràng, cần phải được cụ thể hóa.

Chính vì vậy, việc ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là cần thiết, đây là một biện pháp quan trọng góp phần hoàn thiện và minh bạch hóa môi trường đầu tư, kinh doanh ở Việt Nam.

II. Nhận xét chung

1. Tính thống nhất với hệ thống pháp luật hiện hành và các cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia

Dự thảo Nghị định có một số vấn đề chưa đảm bảo được yêu cầu về tính thống nhất của hệ thống pháp luật hiện hành mà ở phần sau sẽ được phân tích kỹ hơn khi đề cập tới phạm vi điều chỉnh và một số nội dung khác của Dự thảo Nghị định.

2. Kỹ thuật lập pháp

Kỹ thuật lập pháp trong Dự thảo Nghị định còn một số vấn đề cần xem xét chỉnh sửa. Chẳng hạn:

Thứ nhất, về việc sử dụng thuật ngữ “xâm phạm” thay cho thuật ngữ “hành vi xâm phạm”:
Khi nói về “xâm phạm”, Luật Sở hữu trí tuệ luôn dùng cụm từ “hành vi xâm phạm”, trong khi đó Dự thảo Nghị định lại nói tắt lại thành “xâm phạm” mà không có sự giải thích rõ ràng (ví dụ: Điều 5 Dự thảo Nghị định với Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ, đáng lẽ phải nói “xử lý hành vi xâm phạm” thì Dự thảo Nghị định chỉ nói là “xử lý xâm phạm”, cách nói này hoàn toàn khác với cách nói tại Luật Sở hữu trí tuệ). Thực chất, xét về mặt ngữ nghĩa, “hành vi xâm phạm” và “xâm phạm” là không đồng nhất.

            Do đó, để tránh việc sinh ra những thuật ngữ pháp lý mới mà không có sự giải thích đầy đủ trong khi đã có những thuật ngữ được sử dụng quen hơn, đảm bảo tính thống nhất, nhất quán của hệ thống pháp luật, Dự thảo Nghị định không nên đồng nhất thuật ngữ “hành vi xâm phạm” trong Luật Sở hữu trí tuệ với “xâm phạm” trong Dự thảo Nghị định. Thuật ngữ “xâm phạm” trong Dự thảo Nghị định cần chỉnh sửa thành “hành vi xâm phạm” trong những trường hợp cần thiết.

            Thứ hai, một số Điều luật bị dẫn chiếu sai trong Dự thảo Nghị định:

            Ví dụ, Điều 5 Dự thảo Nghị định có nhắc tới Điều 168 Luật Sở hữu trí tuệ, nhưng ở đây điều luật chính xác phải là Điều 198 Luật Sở hữu trí tuệ.

            Thứ ba, một số lỗi kỹ thuật lập pháp khác:

Chẳng hạn, ngay trong Điều 5 của Dự thảo Nghị định, theo cách diễn đạt của Dự thảo thì chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đồng thời vừa có quyền khởi kiện tại Tòa án lại vừa có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm về mặt hành chính (Khoản 1). Trong khi đó, người bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra thì chỉ có 1 quyền duy nhất là quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm về mặt hành chính (Khoản 2).

            Cách quy định này dễ dẫn người đọc hiểu rằng, người bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra không có quyền khởi kiện tại Tòa án. Điều này là hoàn toàn không đúng bởi theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (cũng như Bộ luật Dân sự) thì mọi tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi của người khác gây ra (tức là có quyền dân sự bị xâm hại), đều có thể tiến hành khởi kiện tại Tòa án.

            Do vậy, để tránh những hiểu nhầm trong quá trình áp dụng, đề nghị Ban soạn thảo chỉnh sửa cho phù hợp.

            Hay cũng chính quy định tại khoản 1 Điều 5 “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền khởi kiện tại Tòa án …. hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp hành chính …”. Việc sử dụng từ “hoặc” trong quy định này dễ dẫn đến cách hiểu là nếu đã khởi kiện tại Tòa án thì mất quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp hành chính (chủ thể có quyền chỉ có thể chọn lựa 1 trong 2 biện pháp, nếu đã chọn biện pháp này thì không được chọn biện pháp khác). Cách hiểu này rõ ràng không phù hợp với yêu cầu bảo vệ sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp này, từ “hoặc” cần phải sửa lại thành “hoặc/và” (dù cách dùng cụm từ này không phổ biến trong văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam).

III. Những vấn đề lớn:

1. Về căn cứ ban hành Nghị định

Tuy trong tên của Dự thảo Nghị định nêu rõ đây là “Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ” nhưng khi nghiên cứu kỹ nội dung của Dự thảo Nghị định thì Nghị định được thiết kế theo hướng cụ thể hóa các quy định của không chỉ Luật Sở hữu trí tuệ mà còn cả Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, để đảm bảo tính gắn kết, nhất quán trong hệ thống pháp luật, trong phần căn cứ ban hành Nghị định cần bổ sung căn cứ Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành.

2. Về phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Nghị định:

a. Có nên điều chỉnh quan hệ tố tụng trong Dự thảo Nghị định không?

Dự thảo Nghị định có rất nhiều nội dung điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa Tòa án với các tổ chức, cá nhân trong xã hội (quyền khởi kiện, vấn đề cung cấp chứng cứ trước Tòa án). Cụ thể:

- Điều 2 khoản 6 có nhắc tới Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 4 khoản 1 có nhắc tới thời hiệu yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp dân sự đối với hành vi xâm phạm thực hiện theo quy định tại Điều 159 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 5 khoản 1 có khẳng định lại quy định đã có trong Luật Sở hữu trí tuệ “Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.

- Điều 6 khoản 1 “Đơn khởi kiện phải tuân theo quy định tại Điều 164 Bộ luật tố tụng dân sự”.

- Các quy định tại Điều 7, 8, 9, 10, 11, 12 đều ngụ ý sẽ được áp dụng cho các hoạt động tố tụng dân sự.

- Các quy định về giám định tại khoản 1 Điều 47, Điều 50, Điều 52, Khoản 1 Điều 53 trong Dự thảo Nghị định.

Trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, trong đó nguyên tắc phân công quyền hạn giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, đề cao tính độc lập của việc thực thi quyền tư pháp xét xử thì việc cơ quan hành pháp (Chính phủ) ban hành quy định điều chỉnh các hoạt động tiến hành tố tụng của Tòa án là điều không phù hợp với các quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.

Để đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tuân thủ các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), Luật Tổ chức Chính phủ, các quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng dân sự trong Dự thảo Nghị định kể trên cần phải được loại bỏ ra khỏi Dự thảo Nghị định (chỉ giữ lại các quy định liên quan đến hoạt động của cơ quan hành pháp - chủ yếu là hoạt động xử lý bằng biện pháp hành chính mà thôi).

b. Vấn đề xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

Trong Điều 1 (khoản 2) khi quy định về phạm vi điều chỉnh của Nghị định, Dự thảo Nghị định nêu rõ “Nghị định này không quy định việc xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Các hành vi này được xử lý theo quy định của pháp luật cạnh tranh”.

Theo tinh thần này, các hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ nhưng nếu thuộc diện điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh (chẳng hạn các hành vi xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh) thì Nghị định này sẽ không điều chỉnh. Các quy định về hành vi vi phạm, mức xử phạt, thẩm quyền xử phạt đối với những hành vi này sẽ do pháp luật cạnh tranh quy định.

Hiện tại, pháp luật cạnh tranh cũng đã có quy định về vấn đề này ở mức độ nhất định. Chẳng hạn, Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 tại Điều 31 có quy định cụ thể như sau:

Điều 31. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh

1. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:

a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;

b) Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở hữu bí mật kinh doanh;

c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó;

d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh, làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh quy định tại khoản 1 Điều này thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Sử dụng bí mật kinh doanh để sản xuất và lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên;

b) Tiết lộ, cung cấp bí mật kinh doanh cho đối thủ cạnh tranh của chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó.

3. Ngoài việc bị phạt theo khoản 1 Điều này, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

Về thẩm quyền xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh này được Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định dành cho cả cơ quan quản lý cạnh tranh (Điều 42) và cả các cơ quan khác (Điều 45). Thậm chí, Điều 45 của Nghị định này còn nêu rõ “Thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ của các cơ quan khác được xác định theo các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính”.

Vậy, nếu Dự thảo Nghị định không đặt vấn đề quy định thẩm quyền xử lý hành vi xâm phạm sở hữu trí tuệ nhưng đồng thời cũng là hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì việc thực hiện Điều 45 của Nghị định 120/2005/NĐ-CP là không thể triển khai. Đây là vấn đề đề nghị Ban soạn thảo Dự thảo Nghị định xem xét khi xây dựng Nghị định này.

Thêm vào đó, nếu thực sự Nghị định này không điều chỉnh việc xử lý các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh (vi phạm Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ), thì Khoản 1 Điều 3 của Dự thảo Nghị định cần phải sửa lại theo hướng không nhắc tới Điều 127 Luật Sở hữu trí tuệ, như thế mới đảm bảo tính nhất quán của văn bản.

3. Các quy định về giám định sở hữu trí tuệ (Chương V dự thảo Nghị định)

Về vấn đề này, nhất trí với việc cần hướng dẫn thi hành quy định cùa Điều 201 Luật Sở hữu trí tuệ. Việc thừa nhận và xây dựng khung pháp lý về hoạt động này sẽ tạo điều kiện cho việc phát triển loại hình dịch vụ này. Tuy nhiên, đối với các nội dung liên quan trong dự thảo Nghị định, các quy định trong Dự thảo Nghị định vừa thiếu lại vừa thừa, giải trình của Ban soạn thảo còn nhiều điểm chưa thuyết phục:

Thứ nhất, theo nội dung giám định sở hữu trí tuệ quy định tại khoản 1 Điều 46 thì nội dung giám định sở hữu trí tuệ bao hàm toàn bộ những vấn đề liên quan đến vấn đề mà từ trước đến nay được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ. Đề nghị Ban soạn thảo xem xét lại phạm vi nội dung dịch vụ giám định sở hữu trí tuệ vì quan điểm dịch vụ hóa, thương mại hóa các hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước lại là lựa chọn hay đối với hoạt động của doanh nghiệp.

Theo giải trình của Ban soạn thảo Nghị định thì giám định sở hữu trí tuệ quy định trong Dự thảo Nghị định có lúc là hoạt động giám định tư pháp (khi Tòa án trưng cầu), nhưng có lúc lại không phải.

Tuy vậy, đối với trường hợp giám định sở hữu trí tuệ không phải là giám định tư pháp thì có lúc Dự thảo Nghị định lại sử dụng luôn quy định về giám định tư pháp để điều chỉnh. Chẳng hạn, Khoản 2 Điều 50 Dự thảo quy định “Việc giám định theo trưng cầu có thể do cá nhân người giám định hoặc tập thể người giám định thực hiện. Trong trường hợp có trưng cầu giám định lại thì việc giám định lại do hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Pháp lệnh giám định tư pháp”. Tương tự, Điều 51 khoản 2 của Dự thảo Nghị định cũng quy định “Trong trường hợp có yêu cầu giám định lại thì việc giám định lại do hội đồng giám định thực hiện theo quy định của Pháp lệnh Giám định Tư pháp”?

Đối với trường hợp giám định sở hữu trí tuệ không phải là giám định tư pháp, thì liệu Bộ Tư pháp có nên được trao thẩm quyền thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước đối với hoạt động giám định này không? (Như quy định trong Khoản 3 Điều 48, Khoản 3 Điều 49, Điều 54 của Dự thảo Nghị định?).

Đối với trường hợp giám định sở hữu trí tuệ không phải là giám định tư pháp thì liệu các quy định như Dự thảo Nghị định liệu đã đủ để đảm bảo việc cung cấp dịch vụ giám định được khách quan, có chất lượng không? Câu trả lời chắc chắn là không. Nếu so với các quy định trong Pháp lệnh giám định tư pháp năm 2004, nhiều quy định trong Nghị định còn thiếu. Ví dụ, Điều 37 Pháp lệnh này có quy định quan trọng:

“Điều 37. Những trường hợp không được thực hiện giám định tư pháp.
Người thuộc một trong những trường hợp sau đây thì không được thực hiện giám định tư pháp:

1. Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Toà án hoặc đã tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch trong vụ án đó;

2. Đồng thời là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo;

3. Được trưng cầu giám định lại về cùng một nội dung trong một vụ án mà mình đã thực hiện giám định, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;

4. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng người đó có thể không vô tư trong khi thực hiện giám định”.

Vậy trường hợp giám định sở hữu trí tuệ không phải là giám định tư pháp thì liệu quy định này có nên được áp dụng không? Câu trả lời chắc chắn là “có”. Tuy vậy, Dự thảo Nghị định hoàn toàn bỏ qua những quy định tương tự như vậy.

Do đó, đề nghị Ban soạn thảo Nghị định cần nghiên cứu kỹ hơn kinh nghiệm lập pháp trong Pháp lệnh giám định tư pháp để có sự sửa đổi, bổ sung hợp lý.

Thứ hai, nội dung của dự thảo Nghị định quy định việc thành lập các trung tâm giám định sở hữu trí tuệ và thủ tục công nhận các tổ chức được thực hiện giám định sở hữu trí tuệ. Như vậy có thể thấy, phần nội dung quan trọng nhất là điều kiện thực hiện/ kinh doanh giám định sở hữu trí tuệ lại chưa được quy định cụ thể trong dự thảo Nghị định (điều kiện để tổ chức được kinh doanh dịch vụ giám định và điều kiện để một người được công nhận là giám định viên).

Khoản 3 Điều 48 và khoản 3 Điều 49 quy định giao các Bộ liên quan quy định và Bộ Tư pháp công bố việc thành lập tổ chức giám định sở hữu trí tuệ và công nhận người giám định sở hữu trí tuệ là trái với quy định hiện hành của pháp luật về điều kiện kinh doanh (ít nhất phải là văn bản của Chính phủ quy định cụ thể).

Hơn nữa, về nguyên tắc không cần thiết phải qua thủ tục Bộ Tư pháp công bố bởi không có giá trị pháp lý, bên cạnh đó lại rườm rà thêm cho hoạt động của doanh nghiệp, người muốn thực hiện/ kinh doanh giám định sở hữu trí tuệ. Do đó, đề nghị trong từng lĩnh vực riêng biệt của quyền sở hữu trí tuệ như sở hữu công nghiệp, quyền tác giả và giống cây trồng, Nghị định này cần quy định điều kiện cụ thể, những tổ chức, cá nhân nào đáp ứng các điều kiện thì được quyền thực hiện giám định sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực liên quan. Thực tế hiện nay và trong tương lai, về cơ bản, những người thực hiện/ hoạt động trong lĩnh vực này, có chuyên môn, kinh nghiệm, am hiểu pháp luật đều có thể thực hiện hoạt động giám định sở hữu trí tuệ này, do đó không cần thiết phải đặt ra thêm một loại giấy tờ gì do cơ quan Nhà nước cấp để là điều kiện bắt buộc phải có để thực hiện giám định sở hữu trí tuệ.

Ngoài ra, Điều 48 Dự thảo Nghị định có quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức giám định sở hữu trí tuệ mà đáng ra, các quy định đó nên dành cho người giám định sở hữu trí tuệ. Việc quy định như Khoản 2 Điều 48 dễ đưa đến hiện tượng tổ chức giám định chịu trách nhiệm thay cho người thực hiện hành vi giám định. Giám định là hoạt động chuyên môn sâu, người thực hiện hành vi giám định phải chịu trách nhiệm cá nhân rất cao. Chính vì thế, nói chung, pháp luật về giám định đều quy định theo hướng đề cao trách nhiệm cá nhân của người thực hiện giám định đồng thời đảm bảo tính độc lập của người làm công tác giám định.

Thứ ba, đề nghị tham khảo cơ chế của Luật Thương mại quy định về việc công nhận giám định viên. Hoạt động giám định thương mại có phạm vi rộng hơn so với giám định sở hữu trí tuệ, nhiều lĩnh vực có chuyên môn, nghiệp vụ cao, tuy nhiên giám đốc công ty giám định là người có thẩm quyền công nhận giám định viên và chịu trách nhiệm về quyết định của mình bởi quan điểm cơ bản được xác định là đây là một loại hình dịch vụ, nếu giám định viên hoặc tổ chức giám định làm việc không tốt thì sẽ do thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của họ; không cần thiết phải là cơ quan Nhà nước công nhận giám định viên.

Thứ tư, việc các Bộ quản lý nhà nước quy định việc thành lập các trung tâm giám định sở hữu trí tuệ đồng thời công nhận các tổ chức giám định sở hữu trí tuệ (sau đó cả 2 loại tổ chức giám định này sẽ đều tham gia kinh doanh, cạnh tranh trên thị trường) là không bảo đảm công bằng trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước không cần thiết bắt buộc trong lĩnh vực nào cũng phải thành lập các trung tâm sự nghiệp có thu nhưng thực chất là kinh doanh. Sẽ tốt hơn nếu các trung tâm giám định sở hữu trí tuệ quy định trong Dự thảo do các Bộ thành lập để phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước của các Bộ. Ngoài ra, cũng có ý kiến cho rằng việc thành lập các trung tâm giám định sở hữu trí tuệ của các Bộ, thực hiện giám định với nội dung rộng tương đương với các nội dung hiện nay cơ quan quản lý nhà nước đang thực hiện như đã nói ở phần trên và thu phí giám định, thì vô hình chung chúng ta đã thương mại hóa các hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước; liệu có khả năng những trung tâm này lại có khả năng trở thành "sân sau" của các cơ quan quản lý nhà nước hay không, vấn đề này cần được nghiêm túc xem xét.

Thứ năm, không nhất trí với quy định tại khoản 2 Điều 53 dự thảo, theo đó cơ quan có thẩm quyền trưng cầu giám định thì phí giám định thực hiện theo quy định của Bộ Tài chính. Trường hợp này, nếu trưng cầu doanh nghiệp giám định sở hữu trí tuệ thực hiện thì phải trả phí trên cơ sở thỏa thuận với doanh nghiệp.

Thứ sáu, đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu, bổ sung các quy định trong dự thảo về giá trị pháp lý của chứng thư giám định sở hữu trí tuệ cũng như việc giải quyết sự không thống nhất giữa kết quả của các chứng thư giám định. Có 2 trường hợp xảy ra: (1) hai doanh nghiệp khởi kiện nhau nhưng mỗi bên đều có kết quả giám định của hai tổ chức giám định khác nhau, có kết quả khác nhau về cùng một nội dung; (2) khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính và sử dụng chứng thư giám định sở hữu trí tuệ như một nguồn chứng cứ (khoản 1 Điều 52 Dự thảo) nhưng tổ chức, cá nhân bị xử phạt lại có chứng thư giám định sở hữu trí tuệ về cùng một nội dung nhưng kết quả khác. Nếu không có cơ chế hữu hiệu giải quyết vấn đề này thì chúng ta sẽ lại vô hiệu hóa ý nghĩa pháp lý của các quy định về giám định sở hữu trí tuệ.

IV. Một số góp ý vào điều khoản cụ thể của Dự thảo Nghị định:

1. Điều 10

Đề nghị Ban soạn thảo làm rõ thêm khái niệm "thẩm định" xác định thiệt hại. Theo quy định của pháp luật, vấn đề trưng cầu "giám định" thiệt hại đã có quy định. Vì vậy, khái niệm "thẩm định" thiệt hại là như thế nào, có khác gì với "giám định" không, căn cứ pháp lý cho hoạt động "thẩm định thiệt hại" là gì, đề nghị cần làm rõ thêm nội dung này.

2. Điều 12: Trách nhiệm của người yêu cầu xử lý vi phạm:

Tại khoản 2 đề nghị bỏ cụm từ "hạn chế cạnh tranh" bởi hành vi hạn chế cạnh tranh theo khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh được hiểu là các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng hành vi thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Những nội hàm của hành vi hạn chế cạnh tranh không phù hợp với quy định tại khoản này.

3. Điều 15: xác định yếu tố xâm phạm

Điểm a khoản 2 quy định điều kiện để sản phẩm bị xem xét bị coi là có chứa yếu tố xâm phạm nếu "có ít nhất một phần (một bộ phận) trùng hoặc tương đương với một phần độc lập thuộc phạm vi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ".

Nhất trí với yếu tố "trùng" (có thể được hiểu là "giống"), tuy nhiên đề nghị Ban soạn thảo làm rõ yếu tố "tương đương" ở đây được hiểu như thế nào, tương đương chắc chắn là khác với "trùng", vậy "tương đương" có phải là gần giống không, đặc biệt cần làm rõ "tương đương" đến mức độ nào thì mới bị coi là có chứa yếu tố xâm phạm. Đơn cử đối với nhãn hiệu hàng hóa thì dấu hiệu bị coi là xâm phạm nếu "tương tự đến mức gây nhầm lẫn" với nhãn hiệu được bảo hộ. Do đó, cần làm rõ thêm "tương đương" được hiểu là gì và mức độ đến đâu thì bị coi là có yếu tố vi phạm. Mặc dù tại các Điều từ 17 đến 21 có quy định cụ thể về hành vi vi phạm, trong đó có quy định cụ thể về yếu tố xâm phạm đối với một số đối tượng sở hữu trí tuệ tại các Điều 19, 20 và 21, nhưng khái niệm chung về “yếu tố xâm phạm” tại điểm a khoản 2 Điều 15 vẫn chưa bao hàm hết mọi trường hợp.

4. Mục 3 “Xác định thiệt hại” của Chương III:

Nhìn chung nhất trí với quy định của Mục này. Tuy nhiên, đề nghị làm rõ khoản 2 Điều 24, theo đó giá trị được tính thành tiền của đối tượng quyền sở hữu trí tuệ được xác định theo cả 3 căn cứ nêu tại điểm a, b và c của Khoản 2 hay chỉ cần theo một trong ba căn cứ đó là đủ. Đề nghị khi xác định cụ thể giá trị thành tiền của đối tượng sở hữu trí tuệ thì chỉ cần căn cứ vào một trong 3 căn cứ này là được. Tuy nhiên, có một số trường hợp cả ba căn cứ nêu tại khoản 2 Điều 24 đều khó có thể áp dụng bởi đối tượng quyền sở hữu trí tuệ mang tính duy nhất, không có đối tượng sở hữu trí tuệ mang tính trùng hoặc giống nhau, vì vậy có khả năng có trường hợp một đối tượng quyền sở hữu trí tuệ sẽ không được chuyển nhượng hoặc chuyển quyền sử dụng, hoặc không được góp vốn kinh doanh cũng như không được tính giá trị trong tổng số tài sản của doanh nghiệp.

5. Điều 29: Thẩm quyền của các cơ quan xử lý xâm phạm và của người xử lý xâm phạm

Đề nghị viết lại điểm a khoản 1 là “Cơ quan quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi xâm phạm xảy ra trong lưu thông hàng hóa và hoạt động thương mại” bởi đến nay, không có khái niệm “hoạt động kinh doanh thương mại” mà chỉ có khái niệm “hoạt động thương mại” theo quy định của Luật Thương mại.

6. Điều 31: Phối hợp xử lý xâm phạm

Đề nghị xem xét lại điểm b khoản 2 Điều này bởi các cơ quan xử lý xâm phạm có nhiều cấp khác nhau, từ cấp huyện (Quản lý thị trường) hay cấp tỉnh (Thanh tra chuyên ngành Sở) hoặc cấp Chi cục (Hải quan) cho đến Trung ương. Do đó, trường hợp cơ quan xử lý xâm phạm ở cấp dưới có quan điểm khác nhau về cách thức, biện pháp, mức độ xử lý thì có được báo cáo, xin ý kiến cấp trên trực tiếp không hay bắt buộc phải báo cáo xin ý kiến chỉ đạo ngay của Ủy ban quốc gia (cấp Trung ương cao nhất).

7. Điều 42: Cơ quan hải quan có thẩm quyền tiếp nhận đơn

Khoản 3 quy định: "Tổng cục Hải quan có quyền tiếp nhận đơn có yêu cầu áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát hoặc tạm dừng làm thủ tục hải quan tại các cửa khẩu thuộc thẩm quyền quản lý của từ hai Cục Hải quan tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên". Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp có quyền sở hữu trí tuệ bị xâm phạm, đề nghị cho phép cơ chế linh hoạt hơn là doanh nghiệp có thể nộp đơn lên Tổng cục Hải quan hoặc có thể nộp đơn yêu cầu trực tiếp đến từng Cục, Chi cục hải quan quản lý cửa khẩu có hàng hóa bị nghi ngờ vi phạm đang làm thủ tục nhập khẩu.

8. Điều 43: Thủ tục xử lý đơn

Đề nghị xem xét lại quy định “thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị kiểm tra” bởi hiện nay để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, thủ tục hải quan được thực hiện nhanh chóng. Nếu đợi đến 30 ngày thì cơ quan Hải quan mới chấp thuận đơn đề nghị kiểm tra, giám sát thì hàng hóa xuất nhập khẩu lúc đó có khi đã ngoài phạm vi kiểm tra của Hải quan, thậm chí có thể đã được tiêu thụ trên thị trường. Do đó, đề nghị xem xét chỉ cần từ 5 - 7 ngày là cơ quan Hải quan phải xem xét và trả lời đơn đề nghị kiểm tra, giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu bị nghi ngờ xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.

Trên đây là một số góp ý Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trân trọng gửi tới quý Bộ nghiên cứu để hoàn thiện Dự thảo.
Trân trọng cảm ơn sự hợp tác của quý Bộ.
 


 
 
 
Nơi nhận:
-          Như trên
-          Ban TT (để báo cáo)
-         Lưu VT, PC


K/T CHỦ TỊCH
PHÒNG THƯƠNG MẠI VÀ CÔNG NGHIỆP VIỆTNAM
PHÓ CHỦ TỊCH
 
 
Đoàn Duy Khương


 

Các văn bản liên quan